(HNMO) – Google đã đạt bước tiến mới trong việc sử dụng trí tuệ nhân tạo để phát hiện những khối u ác tính. Trong thông báo mới nhất của mình ngày 8-3, gã khổng lồ công nghệ khẳng định rằng phần mềm tìm kiếm của mình chính xác và toàn diện hơn nhiều so với một bác sĩ.
Google đã đạt bước tiến mới trong việc sử dụng trí tuệ nhân tạo để phát hiện khối u ác tính. |
Trong thông báo của mình, nhóm nhà khoa học của tập đoàn Google viết rằng: “Hiện nay, các bác sĩ tìm kiếm khối u di căn bằng cách kiểm tra sự phát triển của các mô sinh học… Quá trình này đòi hỏi bác sĩ phải có kỹ thuật cao, tốn khá nhiều thời gian và kết quả có thể không chính xác. Trong khi đó, nếu việc tìm kiếm khối u của các hạch bạch huyết được máy tính hỗ trợ, quá trình tìm kiếm khối u di căn sẽ nhanh, nhạy bén và nhất quán hơn”.
Nhóm nghiên cứu cũng cho biết, trí tuệ nhân tạo này được thiết kế dưới dạng phần mềm, kiểm tra dưới kính hiển vi để phát hiện sự hiện diện của khối u. “Phần mềm được lập trình tự động tìm kiếm cũng như xác định vị trí của khối u có kích cỡ 100x100 pixel phóng đại lên hình ảnh kính hiển vi sẽ có kích thước 100.000x100.000 pixel”.
Phần mềm trên là một chương trình “học chuyên sâu” (deep-learning), một ứng dụng trí tuệ nhân tạo cơ bản có khả năng xử lí và rút ra kết luận từ kho dữ liệu khổng lồ. Trước đây, Google tạo ra một phần mềm cho máy quét trên những chiếc xe tự lái để phát hiện các ổ gà, cây đổ hoặc người đi bộ. Sau đó, kỹ thuật này đã được áp dụng cho công nghệ phần mềm tìm kiếm các khối u và nó đã cho ra những kết quả khả quan.
Trên thực tế, dù công nghệ có hiện đại và ưu việt thế nào thì cũng không thể thay thế được bác sĩ. Nó chỉ có thể hỗ trợ bác sĩ để xác định khối u di căn chứ không thể đưa ra kết luận và phương án điều trị. Cho đến nay, nhóm nghiên cứu của Google khá lạc quan về sản phẩm công nghệ mới này sẽ đưa kỹ thuật chụp chiếu và điều trị ung thư lên một bước tiến mới.
“Phương pháp xác định khối u di căn bằng phần mềm trí tuệ nhân tạo có thể cải thiện tính chính xác, nhất quán của các trường hợp ung thư vú và có tiềm năng cải thiện kết quả điều trị của người bệnh”, nhóm nghiên cứu chia sẻ.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.