(HNMO) - Nhiều ý kiến cho rằng, các cơ quan thanh tra, kiểm toán tiến hành nhiều hoạt động, phát hiện nhiều sai phạm, nhưng ít vụ việc được chuyển sang cơ quan điều tra, dẫn đến khả năng bỏ lọt tội phạm tham nhũng...
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi). Ảnh: quochoi.vn |
Nên giữ nguyên đối tượng kê khai tài sản, thu nhập
Hai phương án được Chính phủ trình về đối tượng kê khai tài sản, thu nhập gồm:
Phương án 1: mở rộng phạm vi người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập đối với tất cả công chức khi được bổ nhiệm vào ngạch (bao gồm cả công chức xã, phường, thị trấn).
Phương án 2: thu hẹp phạm vi người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập, chỉ áp dụng với đối tượng có hệ số phụ cấp chức vụ từ 0,7 trở lên ở trung ương, từ 0,9 trở lên ở địa phương và một số đối tượng có hệ số phụ cấp chức vụ dưới 0,7 trong một số lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao.
Đối với phương án 1, Ủy ban Tư pháp nhận thấy, theo quy định hiện hành thì đối tượng phải kê khai được áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức có hệ số phụ cấp chức vụ từ 0,2 trở lên và việc kê khai được thực hiện hằng năm.
Tuy nhiên, qua giám sát cho thấy, việc kê khai tài sản, thu nhập thời gian qua còn hình thức, hiệu quả thấp, chưa kiểm soát được tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do số người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập quá lớn (trung bình khoảng hơn một triệu bản kê khai mỗi năm), vượt quá khả năng của các cơ quan có trách nhiệm kiểm soát việc kê khai tài sản, thu nhập. Vì vậy, Ủy ban Tư pháp chưa đồng tình với phương án này.
Trường hợp thu hẹp đối tượng kê khai như đề xuất tại phương án 2 của dự thảo Luật thì cần làm rõ lý do để phân biệt việc lựa chọn người có nghĩa vụ kê khai ở trung ương và địa phương cũng như đánh giá tác động của việc thu hẹp đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập so với quy định của luật hiện hành.
"Từ những lý do như trên, Ủy ban Tư pháp cho rằng, trước mắt nên giữ nguyên đối tượng kê khai tài sản, thu nhập hoặc thu hẹp ở mức độ hợp lý, tập trung vào các đối tượng giữ vị trí quan trọng ở trung ương, địa phương, những khu vực nguy cơ tham nhũng cao để bảo đảm tập trung nguồn lực tiến hành kiểm soát có hiệu quả hơn, tránh hình thức. Việc mở rộng đối tượng kê khai sẽ được nghiên cứu bổ sung khi đã làm tốt việc kiểm soát tài sản, thu nhập của nhóm đối tượng nêu trên và có đủ nguồn lực đáp ứng cho việc mở rộng đối tượng kê khai tài sản, thu nhập theo chủ trương của Đảng quy định tại Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) là “tiến tới tất cả cán bộ, công chức là đảng viên đều phải kê khai tài sản" - bà Lê Thị Nga, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp nói.
Tài sản, thu nhập chỉ được công khai tại nơi làm việc?
Nôi dung công khai bản kê khai tài sản, thu nhập cũng được Chính phủ trình Quốc hội với 2 phương án:
Phương án 1: các bản kê khai tài sản, thu nhập được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người kê khai thường xuyên làm việc.
Phương án 2: thay hình thức công khai tại nơi thường xuyên làm việc bằng hình thức công khai tại chi bộ nơi người kê khai là đảng viên sinh hoạt.
Bà Lê Thị Nga cho biết, đa số ý kiến thành viên Ủy ban Tư pháp tán thành với phương án 1, tức là giữ như quy định của pháp luật hiện hành. Bởi không phải tất cả cán bộ, công chức, viên chức thuộc diện phải kê khai tài sản, thu nhập đều là đảng viên; nếu quy định chỉ công khai bản kê khai tại cuộc họp chi bộ như phương án 2 thì dẫn đến bản kê khai của những cán bộ, công chức, viên chức không phải là đảng viên sẽ không được công khai, gây khó khăn cho hoạt động giám sát, kiểm soát tính trung thực trong bản kê khai của những đối tượng này.
Để xử lý hành vi tham nhũng được phát hiện qua hoạt động thanh tra, kiểm toán, đa số ý kiến của Ủy ban Tư pháp đề nghị giữ nguyên như quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành. Theo đó, khi phát hiện hành vi tham nhũng thì cơ quan ra quyết định thanh tra, kiểm toán phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan điều tra nhằm đảm bảo xử lý hiệu quả, kịp thời tội phạm tham nhũng.
Các ý kiến này cho rằng, đa số các vụ việc tham nhũng đều có tính chất phức tạp, người có hành vi tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn, nên việc xác minh, điều tra để phát hiện tội phạm tham nhũng đòi hỏi phải có chuyên môn, nghiệp vụ tố tụng và có những quyền hạn nhất định thuộc về lĩnh vực tố tụng (như áp dụng các biện pháp theo dõi bí mật, điều tra đặc biệt…). Do đó, khi phát hiện hành vi tham nhũng, nếu cơ quan ra quyết định thanh tra, kiểm toán giữ lại vụ việc để xác minh, làm rõ, ra kết luận thì có thể sẽ dẫn đến tình trạng xử lý kéo dài, người có hành vi tham nhũng có thể hợp thức hoá các chứng từ, che giấu dấu vết tội phạm, không loại trừ đối tượng có thể bỏ trốn…, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, xử lý sau này. Mặt khác, khi vụ việc được chuyển sang cơ quan điều tra thì quá trình xác minh, điều tra làm rõ vụ việc có sự kiểm sát của Viện kiểm sát nên sẽ bảo đảm khách quan hơn, tránh bỏ lọt tội phạm.
Đồng thời, các ý kiến này cũng cho rằng, hiện nay, có tình trạng các cơ quan thanh tra, kiểm toán tiến hành nhiều hoạt động, phát hiện nhiều sai phạm, nhưng ít vụ việc được chuyển sang cơ quan điều tra trong khi tình hình tham nhũng được đánh giá là “vẫn nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành”, dẫn đến khả năng bỏ lọt tội phạm tham nhũng.
Do đó, Ủy ban Tư pháp đề nghị, dự thảo Luật cần xác định trách nhiệm của cơ quan thanh tra, kiểm toán trong trường hợp các cơ quan này khi tiến hành thanh tra, kiểm toán không phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng chuyển cơ quan điều tra, nhưng sau đó các cơ quan có thẩm quyền lại phát hiện ra tội phạm tham nhũng.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.