(HNMO) - Giao thương hàng hóa giữa Việt Nam - EU vẫn có thể lưu thông nhưng tốc độ luân chuyển từ các khâu vận chuyển, thông quan, lưu kho, bốc dỡ đến tiêu thụ có thể chậm hoặc gián đoạn. Do đó, các doanh nghiệp cần theo dõi sát tình hình dịch bệnh để có kế hoạch sản xuất và kinh doanh phù hợp.
Đó là trao đổi của ông Tạ Hoàng Linh, Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ (Bộ Công Thương) với phóng viên Báo Hànộimới liên quan tới những ảnh hưởng của lệnh đóng cửa biên giới EU với hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
- Liên minh châu Âu (EU) đưa ra quyết định đóng cửa biên giới do dịch Covid-19 diễn biến phức tạp. Điều đó có ảnh hưởng tới xuất khẩu, thông thương hàng hóa không, thưa ông?
- Trước diễn biến dịch Covid-19 ngày càng nghiêm trọng, ngày 17-3, lần đầu tiên lãnh đạo các quốc gia thành viên EU đã thống nhất với đề xuất của Ủy ban châu Âu (EC) thông qua một kế hoạch chung đóng cửa biên giới khu vực lãnh thổ EU. Ngoài các nước EU, 4 nước khác trong khối Schengen là Na Uy, Thụy Sĩ, Iceland, Liechtenstein cũng đã quyết định tham gia kế hoạch này.
Việc đóng cửa biên giới không phải là phong tỏa. Mục đích của quy định này là bảo vệ sức khỏe của công dân EU, bảo đảm hàng hóa và các dịch vụ cơ bản có thể tiếp cận được. Theo đó, những người không phải công dân EU sẽ không được nhập cảnh vào khu vực này trong ít nhất 30 ngày tới và có thể kéo dài nếu cần thiết.
Công dân EU, thân nhân của họ, các nhà ngoại giao, nhân viên, chuyên gia y tế và những người vận chuyển hàng hóa được miễn áp dụng quy định trên. Việc di chuyển trong nội khối được cho phép nhưng sẽ chịu những hạn chế nhất định.
Theo tôi, quy định kiểm soát dịch bệnh này của EU trước mắt có thể chưa tác động trực diện đến hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và EU, bởi lẽ quy định chỉ áp dụng đối với hành trình di chuyển của các cá nhân. Hoạt động vận chuyển, thông thương hàng hóa cơ bản không bị hạn chế.
Đó cũng là điểm nhấn mà Chủ tịch EC Ursula Von der Leyen đã khẳng định, rằng hàng hóa, các dịch vụ cơ bản đến EU cần phải được tiếp tục lưu thông để bảo đảm nguồn cung ứng, đặc biệt là các mặt hàng thiết yếu như thực phẩm, linh kiện sản xuất, thuốc men. Tuy nhiên, các biện pháp kiểm soát dịch bệnh có thể ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển hàng hóa hoặc nhu cầu của thị trường.
- Cụ thể những ảnh hưởng đó là gì, thưa ông?
- Xét trên khía cạnh kinh tế, các biện pháp kiểm soát dịch trên thực tế ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển hàng hóa từ xuất khẩu qua các khâu vận chuyển, thông quan, lưu kho, bốc dỡ đến tiêu thụ; gây gián đoạn hoặc làm chậm dòng chảy kinh tế - thương mại - dịch vụ.
Ngoài ra, lượng cung - cầu của thị trường, nhu cầu trao đổi hàng hóa; các hoạt động giao thương giữa EU với các đối tác, trong đó có Việt Nam, cũng sẽ phần nào bị hạn chế. Nhu cầu mua sắm một số hàng hóa, trong đó có các mặt hàng dệt may, da giày, đồ gỗ, điện thoại… (là thế mạnh của Việt Nam xuất khẩu tới EU) khả năng sẽ suy giảm. Tuy nhiên, dự báo sức mua đối với các mặt hàng nông sản, thực phẩm vẫn có thể được duy trì.
Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, hàng hóa nhập khẩu vào các nước EU bằng đường hàng không có thể bị ảnh hưởng đáng kể do nhiều chuyến bay có thể bị hoãn, hủy hoặc cắt giảm. Ngoài ra, vận tải nội khối cũng ít nhiều bị ảnh hưởng do một số quốc gia siết quy định kiểm soát biên giới.
Bên cạnh đó, các quy định liên quan đến kiểm soát dịch bệnh cũng có thể gây đình trệ việc ký kết các đơn hàng xuất khẩu trong thời gian tới giữa Việt Nam với các đối tác EU; cản trở các hoạt động xúc tiến thương mại - đầu tư hai bên; cản trở việc di chuyển của các chuyên gia và lao động trong những lĩnh vực bị hạn chế trong bối cảnh siết chặt cách ly để chống dịch.
- Ông có thể cho biết lưu lượng hàng hóa giao thương giữa Việt Nam và EU hiện nay?
- EU là đối tác thương mại quan trọng, là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam. Lưu lượng hàng hóa xuất, nhập khẩu của Việt Nam sang EU tương đối lớn. Trong năm 2019, lượng hàng hóa xuất khẩu qua đường biển đạt 20,5 tỷ euro, đường hàng không đạt 14,5 tỷ euro, đường sắt đạt 671 triệu euro. Trong khi đó, hàng hóa nhập khẩu từ EU qua đường biển, đường hàng không và đường sắt lần lượt là 5,99 tỷ euro, 3,56 tỷ euro và 9 triệu euro.
Ba tháng đầu năm thường là chu kỳ giảm xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và EU do có nhiều ngày nghỉ của cả hai bên, cùng với dự báo tăng trưởng kinh tế của EU suy giảm như hiện nay, kết hợp với việc doanh nghiệp trong một số lĩnh vực chờ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) có hiệu lực mới xuất hàng để được hưởng thuế quan ưu đãi thì triển vọng tăng trưởng xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và EU trong ngắn hạn được dự báo là tương đối thấp.
Xuất khẩu quý I và quý II-2020 của Việt Nam sang EU dự báo có thể giảm từ 6% đến 8% nếu dịch bệnh tiếp tục kéo dài đến tháng 6. Một số mặt hàng chủ lực như máy tính, điện thoại và linh kiện dự kiến sẽ tiếp tục sụt giảm mạnh do gặp khó khăn cả về khâu cung ứng lẫn nhu cầu thị trường giảm.
- Vậy các doanh nghiệp cần làm gì để đối phó tốt nhất với những tác động trên, thưa ông?
- Dự báo, tăng trưởng xuất khẩu nửa cuối năm 2020 có thể khả quan hơn do bệnh dịch có thể được khống chế và EVFTA có hiệu lực. Do vậy, các doanh nghiệp cần theo dõi sát tình hình dịch bệnh để có kế hoạch sản xuất và kinh doanh phù hợp; đồng thời có phương án chuyển đổi hình thức xúc tiến thương mại theo hướng tận dụng hình thức quảng bá trực tuyến, kết nối doanh nghiệp trực tuyến để duy trì và phát triển thị trường ngay cả khi dịch bệnh đang diễn ra; bảo đảm có thể nhanh chóng khôi phục mọi hoạt động ngay sau khi dịch bệnh suy giảm và kết thúc.
- Trân trọng cảm ơn ông về cuộc trao đổi!
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.