(HNMO) - Năm 2022 đi qua, để lại những thành tựu rất đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế, nhất là trong bối cảnh quốc tế xuất hiện nhiều trở ngại, phức tạp. Phóng viên Báo Hànộimới đã có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng về nội dung này cũng như những trăn trở của người đứng đầu cơ quan tham mưu kinh tế tổng hợp của đất nước trước thềm năm mới 2023.
- Thưa Bộ trưởng, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong điều hành vĩ mô. Tuy nhiên, những biến động của ngoại cảnh là khó dự báo, có thể gây ra những tác động khôn lường. Bộ trưởng có thể chia sẻ những phần việc chúng ta đã làm được trong năm 2022 và những nội dung chưa đạt kết quả như mong muốn bởi các yếu tố khách quan?
- Thời gian vừa qua, chúng ta thường xuyên đánh giá bối cảnh kinh tế thế giới bằng những cụm từ “bất định”, “phức tạp”, “khó lường”. Là cơ quan tham mưu tổng hợp cho Đảng, Nhà nước về các nội dung phát triển kinh tế - xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư càng đặc biệt lưu tâm đến công tác theo dõi, dự báo tình hình bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước. Việc này gắn với những phân tích chuyên đề và cập nhật thường xuyên. Đồng thời, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng kiên định thực hiện một số việc trọng tâm sau:
Thứ nhất, nâng cao năng lực phân tích và dự báo. Bộ đã tổ chức, đầu tư bài bản cho các đơn vị, chuyên gia thực hiện các phân tích định lượng và sử dụng các loại mô hình khác nhau để thực hiện dự báo. Các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế… cũng tín nhiệm và trao đổi, phối hợp với chúng tôi về đánh giá triển vọng kinh tế. Ngoài ra, Bộ cũng thường xuyên trao đổi với cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước để nắm bắt kịp thời, sát thực nhất về tâm lý, kỳ vọng của thị trường - vốn là những nội dung quan trọng quyết định “chất lượng” phân tích và dự báo.
Thứ hai, chủ động kiến nghị các biện pháp cải cách và điều hành kinh tế vĩ mô. Bộ Kế hoạch và Đầu tư thường xuyên chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan trong nghiên cứu, tham mưu điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó cụ thể hóa về thời điểm, liều lượng và yêu cầu phối hợp giữa các chính sách (tài khóa, tiền tệ, đầu tư…). Tổ công tác giữa 4 cơ quan (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và Ngân hàng Nhà nước) đã duy trì hoạt động một cách thực chất, chia sẻ thông tin, chuẩn bị báo cáo quan trọng, kịp thời cho Chính phủ. Trên cơ sở đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11-1-2022 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đồng thời tham mưu Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30-1-2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình - thời điểm “chín muồi” cho tổng lực thúc đẩy phục hồi kinh tế - xã hội. Cũng trên cơ sở tham mưu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 16-9-2022 về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế trong tình hình mới, từ đó góp phần quan trọng củng cố ổn định kinh tế vĩ mô.
Đối với Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, khi thiết kế và đề xuất các gói chính sách phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự kiến sau hai năm triển khai sẽ giúp nền kinh tế phục hồi và chuẩn bị được những điều kiện để tăng trưởng nhanh, mạnh trong các năm tiếp theo.
Tuy nhiên, những biến động bất lợi của bối cảnh thế giới hiện nay đã và đang gây khó khăn, thách thức rất lớn. Với độ mở lớn, nhiều động lực tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng, nhiều việc có thể làm tốt hơn nhưng do ngoại cảnh mà chưa đạt kết quả như mong muốn như: Chi phí nguyên nhiên vật liệu tăng cao dẫn đến chi phí logicstics, chi phí sản xuất, giá thành các gói thầu xây dựng tăng là một trong những nguyên nhân cản trở đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Tiếp theo, tỷ giá biến động nhanh, lãi suất tăng cao, chi phí vốn tăng, khó khăn cho doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn để đầu tư, mở rộng sản xuất, chuyển đổi số, đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh. Các nền kinh tế lớn trên thế giới suy giảm, làm cho cầu hàng hóa xuất khẩu giảm, ảnh hưởng lớn đến kế hoạch tham gia sâu rộng và nâng cấp chuỗi giá trị toàn cầu của doanh nghiệp. Cuối cùng là, thành quả xây dựng và củng cố nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, cơ cấu lại hệ thống tín dụng, xử lý nợ xấu nay đang gặp nhiều thách thức lớn do doanh nghiệp khó khăn, nợ xấu, nợ có nguy cơ thành nợ xấu gia tăng. Mặc dù vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiên định tiếp tục nghiên cứu, đề xuất, kiến nghị các biện pháp, giải pháp để thực hiện hiệu quả, thực chất Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, Bộ Kế hoạch và Đầu tư luôn tâm niệm không dừng ở tham mưu cách thức “ứng phó” với các thay đổi ở bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước. Bộ xác định phải đi trước một bước với những tham mưu cải cách nhằm nâng cao năng lực nội tại, mức độ độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Bộ đã mạnh dạn nghiên cứu, tham mưu nhiều nội dung mới, khó như tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, mở rộng không gian phát triển gắn với quy hoạch hiệu quả, hoàn thiện thể chế liên kết vùng… Không ít nội dung cải cách trên đây đã mở đường cho tăng trưởng kinh tế, khơi dậy tinh thần doanh nhân, năng suất và sáng tạo của các cá nhân. Đây chính là nền tảng để chúng ta tự tin hướng tới những khát vọng phát triển dài hạn mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra, dù bối cảnh quốc tế và khu vực đang và sẽ còn có những thay đổi sâu sắc.
- Năm 2022, hậu quả của sự tàn phá kinh tế toàn cầu bởi đại dịch Covid -19 chưa nguôi ngoai, thế giới đã phải chứng kiến sự xung đột giữa các nước. Nền kinh tế toàn cầu lâm vào cảnh chống chọi với chính sách tiền tệ thắt chặt và nguy cơ đưa đến suy thoái kinh tế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê cho thấy kinh tế xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, nhiều chỉ tiêu đạt được đã bỏ xa dự báo. Vậy nhờ đâu chúng ta đã vượt qua khó khăn để có được kết quả tốt như trên? Và đâu là những điểm hạn chế, cần đáng lưu ý?
- Năm qua, tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức tạp, khó lường với nhiều diễn biến chưa có tiền lệ, vượt khỏi khả năng dự báo. Tác động của đại dịch Covid-19 lên đời sống kinh tế - xã hội tiếp tục kéo dài, kinh tế thế giới mới bắt đầu phục hồi sau đại dịch nhưng lại phải tiếp tục chịu ảnh hưởng mạnh từ xung đột Nga - Ukraine, lạm phát tăng cao, giá cả một số mặt hàng, dịch vụ, nhất là xăng dầu biến động mạnh. Quan điểm điều hành chính sách của nhiều quốc gia thay đổi, đảo chiều nhanh, dấu hiệu suy thoái của kinh tế thế giới và nhiều nước lớn ngày càng rõ nét.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên nhiều ngành, lĩnh vực, hoàn thành và vượt nhiều chỉ tiêu. Kinh tế vĩ mô duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được đảm bảo. Chỉ số giá tiêu dùng CPI bình quân ước dưới 4%. Tăng trưởng GDP ước đạt khoảng 8%. Thị trường tài chính, tiền tệ cơ bản ổn định; điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn biến thị trường; bảo đảm thanh khoản, tăng trưởng tín dụng hợp lý, tháo gỡ những nút thắt của dòng vốn trong nền kinh tế; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên. Công tác điều hành giá được chỉ đạo quyết liệt, sát sao, hiệu quả, nhất là đối với các mặt hàng thiết yếu như xăng, dầu, sách giáo khoa, hỗ trợ hoạt động kinh doanh và đời sống người dân…
Cần khẳng định, để vượt qua những khó khăn, đạt được những thành quả tốt là nhờ sự vào cuộc quyết liệt, quyết tâm, trên dưới đồng lòng của cả hệ thống chính trị; sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Đảng; sự quản lý hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước; sự chung sức, đồng lòng của cộng đồng doanh nghiệp, nhân dân cả nước; sự hỗ trợ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Ngay từ đầu năm, bám sát các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương triển khai quyết liệt, đồng bộ, chính xác, kịp thời, hiệu quả các nghiệm vụ, giải pháp đề ra trên tất cả lĩnh vực, vừa xử lý những khó khăn thách thức mới xuất hiện vừa xử lý những tồn tại hạn chế tích tụ lâu năm của nền kinh tế; tổ chức nhiều hội nghị lớn giải quyết khó khăn, vướng mắc của các thị trường. Duy trì các cuộc họp, làm việc kiểm tra, đôn đốc, thành lập và duy trì hoạt động các tổ công tác, ban chỉ đạo liên ngành nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.
Mặc dù đã hết sức nỗ lực hoàn thành nhiều mục tiêu đề ra, nhưng nền kinh tế năm 2022, đặc biệt là những tháng cuối năm phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn hơn, nhất là do tình hình thế giới, trong nước ngày càng phức tạp, khó lường. Các thị trường xuất khẩu, đối tác lớn bị thu hẹp, đơn hàng xuất khẩu giảm, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn; tình hình lao động việc làm bị ảnh hưởng, xuất hiện tình trạng doanh nghiệp cắt giảm lao động, giảm giờ làm, cho nghỉ Tết sớm… Bên cạnh đó, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực phát triển. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán, bất động sản còn tiềm ẩn rủi ro ảnh hưởng đến niềm tin, tâm lý của nhà đầu tư, doanh nghiệp. Dòng vốn, thanh khoản của nền kinh tế còn nhiều khó khăn.
- Trong bối cảnh thế giới và trong nước được dự báo vẫn còn nhiều khó khăn, để nâng cao năng lực chống chịu của nền kinh tế cũng như hoàn thành các mục tiêu Chính phủ, Quốc hội đặt ra năm 2023, chúng ta cần phải làm gì, thưa Bộ trưởng?
- Phải nhìn nhận thẳng thắn, Việt Nam là một quốc gia đang trong hành trình đổi mới và hội nhập với thế giới, từng bước cố gắng thu hẹp khoảng cách và bắt kịp với các nước phát triển trong khu vực. Nền kinh tế có quy mô còn khá khiêm tốn và khả năng thích ứng, chống chịu trước những cú sốc đến từ bên ngoài còn hạn chế nhưng lại có độ mở lớn nên dễ bị ảnh hưởng từ biến động, dù là nhỏ của thế giới. Do đó, việc nâng cao năng lực chống chịu, tính tự cường của nền kinh tế, tạo tiền đề xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta trong tình hình mới. Đây là một định hướng, chủ trương nhất quán, xuyên suốt, được xác định rõ trong các nghị quyết, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng, Nhà nước đề ra.
Ngay sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2023 tại kỳ họp thứ tư, Chính phủ đã khẩn trương chỉ đạo xây dựng các nghị quyết triển khai thực hiện kết luận của Ban Chấp hành Trung ương và Quốc hội. Trong bối cảnh tình hình thế giới, trong nước dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, khó khăn, thách thức nhiều hơn thì để đạt được các mục tiêu đặt ra, chúng ta cần quyết liệt, tập trung đẩy mạnh và triển khai nhanh hơn các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của năm 2023 trên tinh thần đoàn kết, kỷ cương; bản lĩnh, linh hoạt; đổi mới sáng tạo; kịp thời, hiệu quả. Tôi cho rằng, cần kiên định, nhất quán với với quan điểm, mục tiêu, định hướng chỉ đạo điều hành của Đảng, Nhà nước.
Đó là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; điều hành đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô, phù hợp với thực tiễn. Tiếp tục chú trọng, nâng cao công tác hoàn thiện thể chế, thực thi pháp luật, tạo điều kiện khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Tạo chuyển biến rõ nét trong thực hiện các đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng. Tập trung cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường. Củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định, trật tự, an toàn xã hội để phát triển đất nước.
- Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.