(HNM) - Đầu tháng 1-2023, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đây là căn cứ, định hướng để hiện thực hóa rất nhiều mục tiêu lớn về kinh tế - xã hội. Làm tốt quy hoạch sẽ góp phần vào sự phát triển thịnh vượng của đất nước trong tương lai. Phóng viên Báo Hànộimới đã trao đổi với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng về vấn đề này.
Nhận diện “điểm nghẽn”
- Bộ trưởng từng nhận định, Quy hoạch tổng thể quốc gia là cơ hội để chủ động kiến tạo, quyết định tương lai của đất nước. Vậy những “điểm nghẽn” cần được giải quyết là gì, thưa Bộ trưởng?
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá các hạn chế, yếu kém trong quy hoạch và tổ chức không gian phát triển đất nước thời kỳ vừa qua, chúng tôi đánh giá có 5 điểm nghẽn, vấn đề quan trọng cần giải quyết. Thứ nhất, mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ. Thứ hai, phát triển còn dàn trải, số lượng khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu quá nhiều, quy mô diện tích lớn, chưa bảo đảm các điều kiện về hạ tầng, cơ chế chính sách để thu hút đầu tư. Thứ ba, liên kết phát triển, liên kết vùng còn hạn chế, chưa thực chất. Thứ tư, các vành đai vùng, đô thị vệ tinh, khu đô thị lớn chậm triển khai, đặc biệt tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Thứ năm, chưa hình thành được các trung tâm tài chính lớn mang tầm khu vực, quốc tế.
- Vậy theo Bộ trưởng, những “điểm nghẽn” này ảnh hưởng ra sao đến sự phát triển của đất nước?
- Kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ dẫn tới khả năng kết nối các phương thức vận tải hạn chế, ảnh hưởng đến quá trình phát triển. Ngoài ra, do quy mô các vùng kinh tế trọng điểm quá lớn, chưa có cơ chế, chính sách ưu đãi vượt trội, chưa được đầu tư kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại nên chưa thực sự trở thành các vùng động lực. Một số địa phương phát triển không dựa vào tiềm năng, lợi thế của mình, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, khó thu hút đầu tư.
- Với Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, việc chậm triển khai vành đai vùng, đô thị vệ tinh cũng là vấn đề lớn, cản trở sự phát triển. Bộ trưởng suy nghĩ như thế nào về vấn đề này?
- Việc chậm triển khai vành đai vùng, đô thị vệ tinh khiến hạ tầng đô thị Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chưa đồng bộ, thiếu hạ tầng giao thông kết nối giữa các đô thị và giữa đô thị với nông thôn. Từ đó chậm mở rộng không gian phát triển cho vùng Hà Nội và vùng thành phố Hồ Chí Minh; nhiều dự án đầu tư còn sử dụng nhiều lao động và đất đai; các đô thị trung tâm vùng, trung tâm tỉnh phát triển chưa cân xứng.
Xác định rõ không gian và định hướng phát triển
- Thưa Bộ trưởng, không gian phát triển được nêu trong Quy hoạch tổng thể quốc gia được hiểu như thế nào?
- Trước hết, đó là phát triển các vùng động lực, hành lang kinh tế. Trên cơ sở các vùng kinh tế trọng điểm hiện nay, quy hoạch lựa chọn một số địa bàn có điều kiện thuận lợi nhất để hình thành các vùng động lực quốc gia. Vùng động lực phía Bắc gồm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; vùng động lực phía Nam gồm thành phố Hồ Chí Minh - Bình Dương - Đồng Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu; vùng động lực miền Trung gồm khu vực ven biển Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam - Quảng Ngãi và vùng động lực Đồng bằng sông Cửu Long. Các cực tăng trưởng tương ứng của mỗi vùng là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ. Ngoài ra, từng bước xây dựng, hình thành vùng động lực tại các vùng trung du và miền núi phía Bắc, khu vực Bắc Trung Bộ, vùng Tây Nguyên.
Các hành lang kinh tế ưu tiên phát triển trong giai đoạn đến năm 2030 là hành lang kinh tế Bắc - Nam và 2 hành lang kinh tế Đông - Tây là Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và Mộc Bài - thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu. Trong dài hạn, từng bước hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo đường Hồ Chí Minh và cao tốc Bắc - Nam phía Tây qua Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và 6 hành lang kinh tế Đông - Tây.
- Vậy định hướng phát triển vùng cụ thể là gì?
- Vùng trung du và miền núi phía Bắc sẽ phát triển theo hướng xanh, bền vững và toàn diện. Tập trung bảo vệ, khôi phục rừng; phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững; khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản; bảo đảm an ninh nguồn nước. Phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, năng lượng; nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hữu cơ, đặc sản; kinh tế cửa khẩu, du lịch. Nghiên cứu xây dựng vành đai Bắc Giang - Thái Nguyên - Phú Thọ trở thành vành đai động lực thúc đẩy tăng trưởng cả vùng.
Vùng Đồng bằng sông Hồng sẽ tập trung phát triển các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ hiện đại. Xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo, đi đầu trong phát triển khoa học, công nghệ. Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ, phục vụ đô thị. Tiếp tục xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển. Phát triển vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ (Ninh Bình - Quảng Ninh).
Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung phát triển mạnh kinh tế biển kết hợp với bảo đảm quốc phòng - an ninh. Nâng cao hiệu quả hệ thống cảng biển, các khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp... Xây dựng khu vực ven biển ba tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh trở thành trung tâm phát triển công nghiệp của vùng và cả nước.
Với vùng Tây Nguyên, quy hoạch xác định bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn gắn với bảo đảm an ninh nguồn nước. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản, năng lượng tái tạo; phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa gắn với bảo tồn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa các dân tộc...
Vùng Đông Nam Bộ sẽ trở thành vùng phát triển năng động, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước; trung tâm khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ cao, logistics và trung tâm tài chính quốc tế; đi đầu trong đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long phát triển thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao. Tập trung sản xuất nông nghiệp hàng hóa, hiện đại gắn với chế biến và xây dựng thương hiệu sản phẩm; sử dụng đất nông nghiệp linh hoạt hơn. Phát triển công nghiệp xanh, năng lượng tái tạo.
- Về định hướng tổ chức không gian biển, hệ thống đô thị, nông thôn sẽ theo hướng nào, thưa Bộ trưởng?
- Về định hướng tổ chức không gian biển, Việt Nam sẽ phát triển các vùng biển dựa trên phát huy tối đa lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, bản sắc văn hóa, tính đa dạng của hệ sinh thái; bảo đảm hài hòa, gắn kết và bổ trợ lẫn nhau giữa các ngành, lĩnh vực trên biển và trên đất liền.
Còn định hướng phát triển hệ thống đô thị, nông thôn, hệ thống đô thị quốc gia xây dựng theo mô hình mạng lưới, xanh, thông minh, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố trực thuộc Trung ương thành các đô thị năng động, sáng tạo, dẫn dắt và tạo hiệu ứng lan tỏa, liên kết vùng đô thị; đủ sức cạnh tranh, hội nhập khu vực và quốc tế, có vai trò quan trọng trong mạng lưới đô thị của khu vực Đông Nam Á, châu Á.
Khu vực nông thôn phát triển toàn diện, hiện đại, xanh, sạch, đẹp gắn với quá trình đô thị hóa, có cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội đồng bộ và tiệm cận với khu vực đô thị; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; tạo sinh kế bền vững cho người dân; xã hội nông thôn ổn định; dân trí được nâng cao. Xây dựng các mô hình phân bố dân cư phù hợp với từng vùng sinh thái tự nhiên và các đặc điểm văn hóa, dân tộc, điều kiện kinh tế - xã hội.
- Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.