Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược phát triển Kiểm toán Nhà nước đến năm 2030 (giai đoạn 2021-2030).
Về quan điểm phát triển, nghị quyết nêu rõ: Thể chế hóa đầy đủ và toàn diện các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển Kiểm toán Nhà nước; tuân thủ các quy định của pháp luật, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; xây dựng Kiểm toán Nhà nước xứng đáng là cơ quan thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công có trách nhiệm, uy tín, chuyên nghiệp và hiện đại.
Bên cạnh đó, bảo đảm tính độc lập của hoạt động Kiểm toán Nhà nước tương xứng với vị trí, vai trò là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân thủ theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công; giữ vững giá trị cốt lõi Độc lập - Liêm chính - Chuyên nghiệp - Uy tín - Chất lượng, góp phần quan trọng vào sự phát triển ổn định, bền vững, minh bạch nền tài chính quốc gia, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất nước và phòng, chống tham nhũng, lãng phí; nâng cao trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch, bảo vệ pháp luật, sự liêm chính, giữ vững niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Một quan điểm nữa là phát triển Kiểm toán Nhà nước phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam; đáp ứng yêu cầu hội nhập phù hợp với các nguyên tắc, thông lệ quốc tế; là thành viên có trách nhiệm thúc đẩy sự phát triển lĩnh vực kiểm toán công trong khu vực và trên thế giới; phát triển Kiểm toán Nhà nước gắn với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại và công nghệ thông tin trong mọi hoạt động.
Về mục tiêu tổng quát, phát triển Kiểm toán Nhà nước là công cụ trọng yếu, hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công; nâng cao trách nhiệm giải trình và bảo đảm tính công khai, minh bạch của các cơ quan sử dụng ngân sách nhà nước, phục vụ hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính phủ trong thực hiện chức năng lập pháp, giám sát, quản lý điều hành và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; hỗ trợ HĐND, UBND địa phương trong quản lý, điều hành, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương; nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động kiểm toán thông qua ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, bảo đảm hoạt động công khai, minh bạch, chuyên nghiệp, chính quy, từng bước hiện đại, xứng đáng là cơ quan kiểm toán tài chính, tài sản công có trách nhiệm, uy tín, đáp ứng được yêu cầu của Đảng, Nhà nước và nhân dân; góp phần quan trọng nâng cao năng lực quản lý, quản trị tài chính, tài sản công của Nhà nước, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2021-2030.
Nghị quyết đã đề ra các mục tiêu cụ thể. Theo đó, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để cụ thể hóa Hiến pháp, Luật Kiểm toán Nhà nước và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Kiểm toán Nhà nước cho phù hợp với bối cảnh và xu hướng mới; hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, những quy định về tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 của Việt Nam nói chung và quá trình hiện đại hóa ngành kiểm toán, chuyển đổi số ở Kiểm toán Nhà nước nói riêng; thông qua hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước thúc đẩy trách nhiệm giải trình, tính công khai, minh bạch của các cơ quan sử dụng ngân sách nhà nước và nhận thức của xã hội.
Phát triển tổ chức bộ máy của Kiểm toán Nhà nước chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả theo chủ trương chung của Đảng, Nhà nước; duy trì ổn định hoạt động các Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán Nhà nước khu vực; thực hiện nâng cấp Ban Tài chính thành Vụ Tài chính, nâng cấp Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán thành Học viện Kiểm toán khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định; đổi tên, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm Tin học thành Trung tâm Công nghệ thông tin và dữ liệu; nâng cao mức độ tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập trong ngành trên mọi hoạt động.
Xây dựng đội ngũ công chức Kiểm toán Nhà nước tinh gọn, đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng và có cơ cấu hợp lý. Biên chế của Kiểm toán Nhà nước do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định sau khi có ý kiến của cấp có thẩm quyền bảo đảm phù hợp với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ và xu hướng phát triển trong từng thời kỳ, đến năm 2030 tối đa không quá 2.700 người.
Sắp xếp bố trí, sử dụng đội ngũ dựa trên đề án vị trí việc làm, tiêu chuẩn, điều kiện, nhiệm vụ và yêu cầu công việc thực tế; 100% kiểm toán viên nhà nước, công chức trực tiếp tham gia hoạt động kiểm toán, làm công tác kế hoạch, tổng hợp, thẩm định báo cáo kiểm toán, kiểm soát chất lượng kiểm toán, có khả năng phân tích, tổng hợp và đánh giá chính sách kinh tế vĩ mô, tương xứng với yêu cầu của nghề nghiệp kiểm toán, chuẩn mực quốc tế; nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực.
Một mục tiêu nữa là phấn đấu giai đoạn 2026-2030, kiểm toán thường xuyên hằng năm đối với quyết toán ngân sách nhà nước các bộ, cơ quan trung ương và quyết toán ngân sách các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tăng cường kiểm toán hoạt động, kiểm toán chuyên đề, kiểm toán công nghệ thông tin, kiểm toán môi trường đạt tỷ lệ khoảng 30% đến 40% số lượng các cuộc kiểm toán hằng năm; chú trọng việc phát hiện các sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật để kiến nghị hoàn thiện; nâng cao chất lượng các kết luận, kiến nghị kiểm toán, theo dõi, đôn đốc và có giải pháp để đến năm 2030 hầu hết các kiến nghị kiểm toán được thực hiện; chuyển đổi từ quy trình kiểm toán truyền thống sang quy trình kiểm toán số dựa trên nền tảng dữ liệu lớn với sự hỗ trợ của công nghệ trí tuệ nhân tạo một cách chủ động; thực hiện hoạt động “tiền kiểm” với dự án đầu tư trọng điểm quốc gia, các chủ trương, chính sách lớn, các chương trình mục tiêu quốc gia; nâng cao năng lực kiểm toán đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành của Chính phủ, yêu cầu giám sát của Quốc hội, HĐND các cấp.
Trong hợp tác quốc tế, lấy hội nhập chuyên môn làm trụ cột, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách, khẳng định năng lực chuyên môn của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam trong khu vực và trên thế giới; phát triển đồng thời hợp tác song phương và đa phương, trong đó hợp tác đa phương nhằm nâng cao hình ảnh, vị thế với cộng đồng quốc tế thông qua việc chủ động tham gia, xây dựng các quy tắc, chuẩn mực kiểm toán chung; hợp tác song phương nhằm tập trung phát triển chiều sâu, chia sẻ kinh nghiệm, công nghệ, nâng cao năng lực của Kiểm toán Nhà nước; tổ chức thực hiện một số cuộc kiểm toán phối hợp, cử hoặc tiếp nhận cán bộ tham gia thực tập kiểm toán, thực hiện đánh giá chéo giữa các cơ quan kiểm toán tối cao khu vực và thế giới.
Hoàn thiện môi trường làm việc điện tử của Kiểm toán Nhà nước theo hướng tích hợp và chia sẻ dữ liệu, tinh giản các quy trình hoạt động nội bộ; cung cấp khả năng chỉ đạo điều hành và tra cứu thông tin trên thiết bị di động, ứng dụng văn phòng không giấy tờ; xây dựng hạ tầng dữ liệu, hệ thống quản trị dữ liệu lớn tập trung, kết nối với các hệ thống cơ sở dữ liệu liên quan để thu thập, ứng dụng các công cụ phân tích, dự báo, đáp ứng yêu cầu quản lý, phát triển hoạt động kiểm toán trong môi trường số; đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ số, tiêu biểu là công nghệ dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, công cụ xử lý ngôn ngữ tự nhiên, kết nối vạn vật trong hoạt động kiểm toán và chỉ đạo điều hành nội bộ; tăng cường sử dụng kết quả công nghệ viễn thám, kiểm định chất lượng, kiểm tra phần chìm, kết cấu chịu lực... khi thực hiện kiểm toán; tạo kênh giao tiếp đa chiều giữa Kiểm toán Nhà nước với các đơn vị được kiểm toán trên môi trường mạng; xây dựng Trung tâm dữ liệu của Kiểm toán Nhà nước gắn kết với hệ thống giám sát tài chính, tài sản quốc gia, đưa Kiểm toán Nhà nước trở thành công cụ quan trọng trong hoạch định kinh tế vĩ mô và xây dựng chính sách phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam; ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật số để công khai, minh bạch hoạt động kiểm toán và kết quả kiểm toán, bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng theo quy định của pháp luật.
Hoàn thiện đồng bộ cơ sở hạ tầng đáp ứng hoạt động kiểm toán trong môi trường số, thích ứng với việc tăng cường các cuộc kiểm toán tại trụ sở Kiểm toán Nhà nước; hiện đại hóa và đổi mới phương tiện truyền thông để đáp ứng với yêu cầu của thời đại; đẩy mạnh công tác phối hợp với các cơ quan, đơn vị để tăng hiệu quả trong lĩnh vực thông tin tuyên truyền; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học làm cơ sở xây dựng chiến lược, chính sách phát triển Kiểm toán Nhà nước và dự báo, định hướng những vấn đề mới phát sinh; ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn nhằm tham gia vào chính sách kinh tế vĩ mô cũng như kiến nghị giải pháp hoàn thiện bất cập của chế độ, chính sách; hoàn thành xây dựng các trụ sở làm việc của các Kiểm toán Nhà nước khu vực, Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán; phối hợp ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn, định mức sử dụng kinh phí, ngân sách phù hợp với tính chất đặc thù của hoạt động kiểm toán và chức trách, nhiệm vụ của kiểm toán viên nhà nước.
Nghị quyết nêu ra nội dung chiến lược phát triển Kiểm toán Nhà nước đến năm 2030 về hoàn thiện cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước, phát triển hệ thống tổ chức bộ máy, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng kiểm toán (năng lực kiểm toán, hiệu lực kiểm toán, hiệu quả kiểm toán), về hội nhập và hợp tác quốc tế, về phát triển cơ sở vật chất, thông tin tuyên truyền và nghiên cứu khoa học; về phát triển công nghệ thông tin và công nghệ cao...
Nghị quyết nêu rõ: Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành liên quan phối hợp chặt chẽ với Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan của Quốc hội trong việc thực hiện chiến lược. Các cơ quan của Quốc hội nghiên cứu, chỉ đạo và phối hợp với các cơ quan có liên quan hoàn thiện các văn bản pháp lý bảo đảm cho Kiểm toán Nhà nước thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp; hoàn thiện các quy định liên quan đến tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống các văn bản luật và dưới luật; chỉ đạo, giám sát, phối hợp và theo dõi việc thực hiện chiến lược.
Căn cứ vào chiến lược, Kiểm toán Nhà nước xây dựng kế hoạch thực hiện chiến lược để cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, chương trình chi tiết với lộ trình và điều kiện thực hiện cụ thể; chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện đầy đủ, kịp thời các nội dung của chiến lược; định kỳ rà soát, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả thực hiện và đề xuất điều chỉnh, bổ sung các nội dung của chiến lược.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.