(HNM) - Học lịch sử, tôi vô cùng khâm phục những người đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ
Học lịch sử, tôi vô cùng khâm phục những người đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" mà chưa biết rằng những chứng nhân lịch sử đó đang sống bình lặng ngay cạnh mình. Chỉ đến gần đây, khi được nghe bà kể chuyện chiến đấu tại Điện Biên Phủ, tôi mới hay, ông bà là những người lính đã trực tiếp tham gia chiến dịch.
Tận tình chăm sóc thương binh. Ảnh tư liệu |
Những trận chiến ác liệt
Cả ông, bà ngoại tôi đều là người Hà Nội và vào bộ đội từ thời chống Pháp. Bà nhập ngũ năm 1948, ông nhập ngũ năm 1949. Cả ông và bà đều tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, nhưng bà là người trực tiếp phục vụ ở mặt trận. Chuẩn bị cho chiến dịch, bà được cử đi học lớp đào tạo y tá do Quân y Viện 108 mở. Lớp có 60 người. Sau khi tốt nghiệp, mọi người được bổ sung về 10 đội điều trị phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ. Cả đội điều trị có khoảng 20 người, trong đó chỉ có 4 bác sĩ, còn lại là y tá và hộ lý.
Trước chiến dịch, đơn vị của bà hành quân từ Thái Nguyên về Phú Thọ để học chính trị, học về kỷ luật mặt trận và chính sách thương bệnh binh trong 1 tháng. Học xong, đơn vị lập tức được lệnh hành quân dọc sông Mã, xuyên rừng lên Điện Biên Phủ. Đơn vị phải hành quân vào ban đêm theo những lối mòn trong rừng để tránh máy bay giặc ném bom. Chỉ đến sáng mới được dừng chân. Mặc dù đói và mệt rã rời nhưng phải lập tức lo đào hố cá nhân để tránh bom. Cứ như thế, đơn vị hành quân hàng tháng trời mới lên tới mặt trận Điện Biên Phủ.
Đặt chân tới Điện Biên Phủ, bà đã cảm nhận ngay được không khí hừng hực trước một chiến dịch lớn. Lúc đó là cuối năm 1953, bộ đội đang tích cực chuẩn bị trận địa. 20km quanh khu vực Mường Thanh đều đã có hệ thống công sự, trận địa của ta. 10 đội điều trị được bố trí theo hình vòng cung bao quanh mặt trận. Thương bệnh binh được cấp cứu, chăm sóc ở các đội điều trị tiền phương, ai bình phục lại tiếp tục ra trận, ai nặng sẽ được chuyển về tuyến sau.
Đội điều trị 2 của bà là một trong những đội điều trị tiền phương, sát trận địa, nơi tiếp nhận thương binh đầu tiên. Trong chiến dịch, Đội điều trị 2 đổi vị trí đóng quân đến mấy lần, lúc đầu đóng quân ở Cửa Rừng, gần đồi Him Lam; sau lại tới Mường Pồn. Ở Mường Pồn một thời gian, Đội điều trị 2 lại di chuyển đến con đường kéo pháo, đóng quân gần một con suối đẹp như mơ, chỉ cách đồi Độc Lập do địch chiếm giữ khoảng 3km theo đường chim bay. Vừa hành quân đến nơi, các bác sĩ, y tá đã khẩn trương chặt tre nứa dựng lán cứu thương và ngay lập tức tiếp nhận thương binh.
Khi những trận chiến ác liệt của Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra, tiếng bom đạn, tiếng súng, tiếng pháo "gào thét" suốt ngày đêm. Thời gian đó, trời còn rất rét. Mưa rừng tầm tã, thối đất thối cát. Bùn ở hầm, hào nhão nhoẹt, nhầy nhụa, có khi ngập ngang ngực. Thương binh từ mặt trận được đưa về ùn ùn. Người nào cũng ướt sũng, máu me, bùn đất bê bết từ đầu đến chân, chỉ hở hàm răng và hai mắt. Người cụt tay, người cụt chân, người bị thương vào đầu, vào bụng… Đúng là: Máu trộn bùn non. Nhiều người bị mảnh đạn lẫn bùn găm lỗ chỗ như đậu đen đầy mặt, rửa hàng tháng không sạch. Con suối rộng, trong leo lẻo, mơ mộng là thế, vậy mà mỗi lần y tá giặt quần áo cho thương binh, cả một đoạn suối dài đỏ ngầu vì máu và bùn đất.
Thiếu người, thiếu thuốc, thiếu dụng cụ y tế… nhưng thương binh lại được chuyển về dồn dập, cả bác sĩ lẫn y tá đều làm việc đến kiệt sức. Các bác sĩ phải liên tục phẫu thuật cấp cứu, trong khi thuốc gây mê rất ít. Các ca mổ được thực hiện trong hầm tối, y tá phải ngồi lên chiếc xe đạp gắn với bình ắc quy nhỏ, đạp cật lực để có nguồn sáng phục vụ phẫu thuật. Trong ánh sáng le lói từ chiếc đèn xe đạp, bác sĩ đứng hàng chục giờ liên tục để mổ cho thương binh, khiến chân phù mọng, to như chân voi. "Bộ đội dũng cảm lắm! Có anh khi phải cắt một phần cơ thể để tránh hoại tử, không có thuốc mê, đã bám chặt hai tay vào giường bệnh, mắt như lồi ra vì đau đớn, nhưng vẫn cố gắng không kêu la để khỏi làm nao núng bác sĩ và y tá" - bà kể.
Hết mình vì bệnh binh
Với mỗi vết thương của thương binh, bà và các y tá, bác sĩ đều cảm thấy như vết thương trên cơ thể của chính mình, đau đớn, xót xa. Không còn ai nghĩ đến bản thân nữa. Suốt nhiều ngày, các y tá hầu như không ngủ, cả ngày quần quật phục vụ thương binh, đêm lại ngồi dưới chân thương binh để kịp thời cấp cứu, chăm sóc. Cứ 2 y tá chăm sóc 10 thương binh. Lúc đưa về, mỗi thương binh chỉ có một bộ quần áo vải thô và một áo trấn thủ mỏng đã rách tả tơi, ướt sũng bùn đất trong chiến đấu. Vì thế các y tá, bác sĩ phải nhường quần áo, chăn màn, khăn ấm của mình cho họ. Đến bữa, bác sĩ, y tá chỉ ăn cơm với rau tàu bay. Có chút thịt, cá hoặc đồ hộp chiến lợi phẩm lấy được của giặc đều dành cho thương binh hết. "Không có bát đũa, xoong nồi, thìa, dĩa như bây giờ đâu cháu ạ". Lúc đó, cơm được đổ vào rá tre, canh được đổ vào máng làm bằng các cây vầu, thìa và muôi múc canh được làm bằng các miếng sắt tây cắt ra từ vỏ đồ hộp, rồi lấy đá đập cho lõm xuống. Y tá dùng những chiếc thìa ấy bón từng chút cháo nhỏ cho thương binh. Cháo lúc đó chỉ được nấu bằng chút gạo với đường đỏ, không có gì để bồi dưỡng. Thương binh nặng, đau đớn không nuốt nổi, bà và các y tá, hộ lý phải động viên, thuyết phục, dỗ dành để họ cố gắng ăn.
"Bà ơi, ở mặt trận có lúc nào bà thấy sợ không, sợ bom đạn, sợ cái chết?" - tôi hỏi bà. "Lúc đó, công việc quá nhiều, hơn nữa nhìn thấy sự hy sinh, sự đau đớn của các thương binh, quá thương nên chẳng biết sợ là gì nữa" - bà hiền hậu trả lời. Bà bảo: "Hồi đó là con gái mới lớn, đêm trong rừng lại tối đen mịt mù nên chỉ sợ ma. Vậy mà đã nhiều đêm bà cùng một nữ y tá nữa phải ngồi trong chiếc lán trên đồi vắng để trông nom thi hài của các liệt sĩ. Đó là những đồng đội gan góc, vô tư, lạc quan mà bà vẫn chăm sóc hằng ngày". Đã bao năm trôi qua nhưng nhắc tới những chiến sĩ đã hy sinh, bà vẫn buồn trĩu nặng.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, do có thành tích tốt trong phục vụ thương binh, bà tôi được ra tham quan trận địa, vào tận hầm tướng Đờ Cát. Bà được nhận bằng khen của Cục Quân y và được đi dự Đại hội Chiến sĩ thi đua của Tổng cục Hậu cần. Bà cũng được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất và Huân chương Chiến thắng hạng Ba.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, bà tôi chỉ là một y tá, làm những công việc mà bà cho là hết sức bình thường, "thời ấy ai cũng thế", như lời bà nói. Ông bà tôi chỉ là hai trong số hàng nghìn người con của Hà Nội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ông bà tôi vẫn tiếp tục phục vụ quân đội, tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sau này, ông bà nghỉ hưu, sống lạc quan, vô tư, không toan tính hơn thiệt. Tôi càng hiểu, chiến thắng vĩ đại của dân tộc đã được làm nên từ biết bao con người rất đỗi bình dị, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, hăng hái vào trận chiến, hết chiến tranh lại thanh thản trở về sống cuộc đời thầm lặng.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.