(HNM) - Đã hơn mười năm nay, có một người đàn ông mỗi ngày đi trên 50 cây số trên chiếc xe đạp cà tàng đến nghiên cứu từng cổng làng Hà Nội. Ông hý hoáy chụp ảnh, ghi chép cẩn thận từng nét chữ Hán, Nôm trên cổng làng, rồi gặp từng người để hỏi chữ, hỏi việc.
Những người hiểu công việc của ông thì động viên, còn những người không biết thì chép miệng: "ông già rỗi việc", nhưng đối với Vũ Kiêm Ninh thì những lời bàn tán đó đâu có quan trọng, bởi với ông đó là cái duyên mà ông gọi là "duyên nợ cổng làng".
Trong căn nhà nhỏ Khu tập thể Nam Đồng, ông Vũ Kiêm Ninh khẽ lật những trang sách còn thơm mùi giấy mới, đôi bàn tay run lên vì xúc động ông bảo: "Mình đã mất hơn mười năm với bao gian truân vất vả để làm quyển sách này, khi nó ra đời mình vui lắm. Thế là, mình đã làm được điều mà mình đã trăn trở bấy lâu nay, làm sao lưu giữ được hình ảnh của những chiếc cổng làng Hà Nội xưa, để sau này nó có bị phá đi mọi người nhìn vào cũng thấy phần hồn Hà Nội xưa kia còn đấy". Mười năm lặn lội để cho ra đời hơn 300 trang sách và 109 tấm ảnh về cổng làng Hà Nội, ông Vũ Kiêm Ninh đã làm được điều mình mong ước. Với cuốn sách Cổng làng Hà Nội xưa và nay Vũ Kiêm Ninh đặc tả rõ nét đẹp văn hóa của chiếc cổng làng, ông hy vọng mình sẽ làm được điều gì đó để chiếc cổng làng không còn là những câu chuyện cổ tích đối với trẻ thơ.
Sinh ra và lớn lên ở làng Bưởi. Làng Bưởi của ông có chiếc cổng to và đẹp. Khi còn nhỏ, cậu bé Ninh thường cùng lũ trẻ lũn cũn chạy quanh cổng làng, rồi những buổi chiều tan học, quẳng vội sách, bút, túm tụm bên cổng làng chơi đánh bi, đánh đáo. Thỉnh thoảng mẹ cho cậu theo về quê ngoại ở Thường Tín, Hà Tây. Quê ngoại cậu có cái cổng làng cổ rất to và bề thế, hai bên đường là những cánh đồng lúa thẳng tắp. Cậu mê lắm nên lần nào cũng vậy khi nhìn thấy bóng cổng làng là cậu hò reo vì biết đã về đến quê ngoại. Hai mẹ con cậu thường dừng chân bên cổng làng để uống bát nước chè xanh đặc sánh. Chiếc chõng tre trỏng trơ của bà bán nước bao giờ cũng có vài củ khoai lang, hũ kẹo bột, chiếc bánh đa cậu thích. Rồi, chiếc cổng làng đó bị người ta phá đi để xây đường, cậu bé Ninh tiếc đến nao lòng. Lớn lên mỗi dịp đi đâu cậu lại ngắm nghía rất kĩ chiếc cổng làng nơi mình dừng chân.
Năm 18 tuổi, Vũ Kiêm Ninh vào làm ở Xưởng phim truyện Việt Nam, ông có nhiệm vụ phải giữ hình ảnh đẹp trong trường quay, làm sao hình ảnh phải luôn luôn ở giữa khuôn hình và xử lý ánh sáng cho hình ảnh đẹp. Trong thời gian này ông đã đi rất nhiều nơi, đi đâu ông cũng chụp những bức hình rất sinh động về chiếc cổng làng. Mỗi làng quê ông đi qua là một sự kỳ thú, về một câu chuyện chiếc cổng làng. Năm ông 47 tuổi do một tai nạn, ông xin về hưu non, ông bắt đầu viết văn, viết báo, ông có nhiều bài viết về cổng làng rất hay, nhưng ý tưởng cho ra đời một cuốn sách về cổng làng Hà Nội thực sự bắt đầu vào năm 1996. Một lần đi thăm lại chiếc cổng làng trong những tấm ảnh xưa ông chụp, nhưng những chiếc cổng đó không còn nữa, nó đã biến mất vĩnh viễn để nhường chỗ cho một con đường rộng bụi mù mỗi khi có chiếc xe tải đi qua. Chiếc cổng làng bằng gỗ cũ kĩ đã tróc sơn, mọt cánh, hay một chiếc cổng xây bằng gạch cũ rêu phong giờ chỉ còn lại trong ký ức. Đô thị hóa đã len lỏi từng ngõ ngách làng quê. Những chiếc cổng xưa không còn hợp với những con đường bê tông mở rộng, những chiếc xe công nông, ô tô ra vào thường ngày phục vụ nhu cầu cuộc sống của người dân. Và, khi cuộc sống càng được nâng cao thì chiếc cổng làng lại càng hiếm, còn đâu hình ảnh buổi sáng cổng làng mở, dân làng đi chợ búa công việc, hoặc cùng với trâu bò ra đồng cày cấy, đến tối mặt trời lặn, sau khi dân làng về thôn thì cổng làng được đóng lại.
Rồi ngay cả cách viết câu đối trên cổng làng cũng thay đổi, nếu xưa trên cổng làng xưa thường có ghi hàng câu đối thể hiện thế đứng của làng. Đó còn là cách tuyên ngôn về làng, một cách khoe với thiên hạ về cái bề chìm sâu của làng để cho con cháu ra vào phải đọc, phải thuộc mà giữ lấy nếp làng, cổng ngõ giữa xã Mai Lâm huyện Đông Anh vẫn còn đôi câu đối:
Bất ỷ bất thiên xác hồ bạt/ Dĩ tôn dĩ lập ngưỡng dĩ cao.
Dịch nghĩa:
Không dựa, không nghiêng, đẩy xô không đổ/Có tôn kính, càng ngắm càng cao. Bây giờ đến thăm những chiếc cổng làng mới hầu như không còn câu đối nữa, chỉ còn mỗi cái tên làng đứng trơ trọi.
Tuy không phải là nghệ sĩ nhiếp ảnh, cũng không được đào tạo qua bất kỳ khóa học nào về nghệ thuật nhiếp ảnh nhưng, những năm làm ở xưởng phim đã giúp ích ông rất nhiều trong việc tạo khuôn hình và cách lấy nét cho tấm ảnh. Nhìn vào ảnh của ông người ta thấy ngay nét mộc mạc thân yêu một thời chưa xa của những cánh cổng Hà thành. Những giọt mồ hôi đổ xuống càng nhiều thì tập ảnh về chiếc cổng làng của ông ngày càng hoàn thiện thì hình hài đứa con tinh thần của ông càng hiện rõ. Vừa đưa chúng tôi xem từng tấm ảnh ông vừa bảo: "Các cụ xưa có quan niệm "nhà có nóc, làng có cổng" nên ở vùng đất châu thổ sông Hồng làng nào cũng cất một chiếc cổng làng. Cổng làng xưa thường được xây bằng gạch mộc hoặc đá ong, cánh cửa bằng gỗ, bằng tre và thường được trổ ra hướng Đông Nam, là nơi có gió mát và chào đón mặt trời mọc. Dù to dù nhỏ, chiếc cổng làng chính là dấu ấn minh chứng cho một nếp làng bề thế. Chỉn chu, con người có thể lam lũ, nhếch nhác, nhà cửa có thể sơ sài nhưng cổng làng thì phải đàng hoàng. Làng giàu thì cổng lớn, rồng chầu, hổ phục, làng nghèo thì cổng làng cũng đơn giản, nó bé như thân phận người dân trong làng, không trang điểm, không màu mè... thế mà giờ đây..." ông thở dài không nói nữa, nhưng ai đang nghe câu chuyện của ông cũng hiểu ông đang suy tư trăn trở, tiếc nuối những chiếc cổng làng của một thời chưa xa.
Tiếng cót két cổng làng mỗi sáng, mỗi khuya ngày càng xa dần trong cuộc sống hiện đại, nhưng đâu đó vẫn có một người đàn ông đang khắc khoải mong cho câu chuyện cổ tích cổng làngsẽ lại trở về.
KHÁNH HỒNG
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.