(HNM) - Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã dành nhiều chương trình, dự án cho vùng dân tộc và miền núi nhằm phát triển nguồn nhân lực, thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Giờ tin học của học sinh Trường Dân tộc nội trúHà Nội. Ảnh: Quốc Ân
Cả nước có khoảng 30 triệu người sống ở vùng dân tộc và miền núi, trong đó hơn 12 triệu người (chiếm 14,27%) là đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS), chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp. Nhiều nơi tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm hơn 70% cơ cấu lao động như miền núi trung du phía bắc và Tây Nguyên. Trong đó lao động chưa qua đào tạo chiếm 87,21%. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Tỷ lệ người không biết đọc, biết viết, trẻ em trong độ tuổi đến trường nhưng không đi học còn cao. Chất lượng giáo viên yếu và không đồng đều, dẫn đến việc dạy và học tiếng dân tộc còn hạn chế... Đây là những trở ngại trong việc phát triển nguồn nhân lực, là hạn chế đối với đồng bào dân tộc thiểu số khi tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách để nâng cao nguồn nhân lực ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc; đồng thời dành 41 chương trình, dự án, trong đó có 3 chương trình mục tiêu quốc gia cho công tác xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc và miền núi. Tuy nhiên, hiệu quả của chương trình, dự án chưa cao. Bằng chứng là tỷ lệ nghèo đói của vùng dân tộc và miền núi còn rất cao và tốc độ giảm nghèo còn chậm. Theo TS Phan Văn Hùng, Thứ trưởng - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc (UBDT), dù tất cả chính sách ban hành đều có chung mục tiêu là nâng cao nguồn nhân lực của vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho bà con nơi đây. Nhưng trên thực tế, chất lượng của nguồn nhân lực còn nhiều bất cập. Nguyên nhân lớn nhất là công tác giáo dục. Dù chúng ta đã đạt được những thành tích quan trọng trong phổ cập tiểu học, xóa mù chữ nhưng đến nay, tỷ lệ không biết chữ tại các vùng dân tộc và miền núi vẫn còn khá cao, cụ thể: ở vùng trung du, miền núi phía Bắc, tỷ lệ dân số trên 15 tuổi không biết chữ là 12,7%; vùng Tây Nguyên là 11,73% và Đồng bằng sông Cửu Long 8,4%.
Để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của một địa phương, vấn đề chuyên môn kỹ thuật của người lao động đóng vai trò quan trọng. Thế nhưng, ở hầu khắp vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, đa số vẫn là lao động phổ thông. Theo thống kê của UBDT, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo cao hơn rất nhiều lần so với bình quân chung của cả nước. Trong đó, tại vùng Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long, lao động chưa qua đào tạo chiếm trên 90%, có nơi lên tới trên 94%...
TS Mạc Văn Tiến (Bộ LĐTB&XH) cho hay: Bộ LĐTB&XH đang phối hợp cùng UBDT thực hiện chính sách đào tạo nghề (miễn học phí đào tạo, được hỗ trợ đi lại, ăn ở trong thời gian đào tạo...) nhưng rất ít người tham gia hoặc có tham gia rồi cũng bỏ giữa chừng. Mặc dù vậy chính sách vẫn không giúp đồng bào nâng cao trình độ tay nghề, nguyên nhân là do cách thức tổ chức thực hiện của chúng ta còn kém và thiếu hợp lý. Nguồn hỗ trợ của Nhà nước lại quá ít, không đủ sức thu hút nhiều người tham gia. TS Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (Bộ NN&PTNT) cho rằng: Có quá nhiều chính sách phủ khắp các vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa hẳn đã tốt. Thực tế cho thấy, lĩnh vực nào cũng thấy chính sách ưu đãi, vùng đất nào cũng muốn nhận hỗ trợ trong khi nguồn lực từ ngân sách nhà nước rất hạn hẹp và đương nhiên hệ quả của việc hỗ trợ này sẽ là những kết quả chung chung, không rõ nét. Vì vậy, cần phải xây dựng khung chính sách toàn diện cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó sẽ có những chính sách chung nhưng cũng có những chính sách riêng biệt để hỗ trợ từng vùng đồng bào thiểu số chứ không thể ưu tiên dàn đều, cào bằng như hiện nay.
Cũng theo ông Phan Văn Hùng, về lâu dài, các chính sách giúp phát triển vùng đồng bào dân tộc phải được gắn kết với quy hoạch phát triển kinh tế của địa phương; tập trung xóa đói giảm nghèo, thực hiện công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở… Ngoài những chính sách vĩ mô, đối với dạy nghề cũng rất cần những chính sách cụ thể hơn, như thay vì đào tạo nghề, phải tính chuyện đầu ra cho từng con người cụ thể. Hơn nữa, chính sách phát triển nguồn nhân lực đối với vùng đồng bào dân tộc, miền núi cũng phải phù hợp với thực tế từng vùng, miền.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.