Theo dõi Báo Hànộimới trên

Văn lo vận nước - Võ thấu lòng dân

02/09/2010 06:23

(HNM) - Kỷ niệm 65 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2-9 cũng là thời điểm Đại tướng Võ Nguyên Giáp tròn 100 tuổi. Đất nước Việt Nam có được độc lập, hòa bình như hôm nay có phần đóng góp to lớn của Đại tướng.


Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiếp các chiến sĩ “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”
của Thủ đô Hà Nội.Ảnh: Trần Hồng

Năm 1976, chúng tôi được điều động về Bộ Quốc phòng để giúp việc Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Lúc đó, Đại tướng là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy TƯ, giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (12-1976), Đại tướng được Bộ Chính trị và Thường vụ Chính phủ phân công trực tiếp chỉ đạo công tác khoa học và kỹ thuật và sau đó chỉ đạo cả công tác giáo dục - đào tạo.

Gần 35 năm qua, được vinh dự trực tiếp giúp việc với cương vị là trợ lý của Đại tướng, chúng tôi luôn giữ mãi hình ảnh và những ấn tượng sâu sắc trong lần đầu tiên được gặp mặt Đại tướng. Ấn tượng về một tình cảm rất gần gũi, thân quen. Giống như các thế hệ trợ lý trước đây, chúng tôi gọi Đại tướng là "Anh Văn" một cách thân thiết. Những năm tháng làm việc bên cạnh Đại tướng, chúng tôi nhận được từ anh tình cảm thực sự của một người thầy, người cha, người anh rất mực nhân từ. Một con người hết sức bình dị và vô cùng uyên bác. Một nhân cách lớn mà sự vĩ đại bắt nguồn từ chính sự bình dị đó.

Một sự trùng hợp ngẫu nhiên của lịch sử, năm 1911, Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước cũng là năm Anh Văn ra đời. Sinh vào ngày 25-8-1911 tại làng An Xá, một làng quê nghèo thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình nhà nho yêu nước, ngay từ nhỏ còn là một học sinh 14-15 tuổi, anh đã tham gia phong trào yêu nước ở Trường Quốc học Huế. Năm 1927, anh vào Đảng Tân Việt, sau đó cùng một số đồng chí cải tổ Tân Việt thành Việt Nam Cộng sản Liên Đoàn - một trong ba tổ chức hợp thành Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930.

Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, anh đã có may mắn được làm việc gần 30 năm bên cạnh Bác Hồ, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người, trở thành một học trò xuất sắc, gần gũi và trung thành của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Anh Văn được Bác Hồ và Đảng giao cho nhiệm vụ quan trọng nhất, lâu dài nhất là phụ trách quân sự. Anh phụ trách quân sự trong giai đoạn Đảng ta đẩy mạnh cuộc vận động cách mạng tiến hành cuộc vũ trang khởi nghĩa và cuộc chiến tranh vĩ đại 30 năm giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, nhiệm vụ mà anh được trao hết sức quan trọng, hết sức nặng nề.

Dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và của Đảng, anh đã có công đầu trong việc thành lập quân đội, xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ một đội quân chủ lực đầu tiên với 34 chiến sỹ, vũ khí trang bị thô sơ từng bước trở thành một quân đội chính quy, tinh nhuệ, ngày càng hiện đại và hùng mạnh. Anh đã trực tiếp chỉ huy quân đội cùng với toàn dân chiến đấu lập được nhiều chiến công oanh liệt, giành được thắng lợi vẻ vang, đánh thắng đội quân xâm lược của hai đế quốc to, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Anh là người có công đầu trong việc nghiên cứu, tổng kết, phát triển lý luận quân sự, góp phần quan trọng hình thành tư tưởng chiến tranh toàn dân và học thuyết quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Từ một nhà giáo, nhà sử học, nhà hoạt động cách mạng, không qua trường lớp quân sự nào, bằng con đường tự học và trải nghiệm thông qua thực tiễn hoạt động và chiến đấu, anh đã trở thành một vị tướng kiệt xuất, một nhà chiến lược mưu trí sáng tạo, một vị Tổng Tư lệnh văn võ song toàn, là Tư lệnh của các Tư lệnh, Chính ủy của các Chính ủy, liên tục 32 năm là Bí thư Tổng Quân ủy - Quân ủy TƯ; một nhà tổ chức hàng đầu của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Anh được nhiều nhà nghiên cứu, nhà sử học, nhà quân sự trên thế giới đánh giá là "một vị tướng huyền thoại", "một thống soái vĩ đại", "một thiên tài quân sự lớn nhất của thế kỷ XX" và là "một trong những vị tướng vĩ đại nhất của mọi thời đại".

Từ ngày đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng, theo sự phân công của Đảng và Nhà nước, Đại tướng đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp phát triển khoa học và giáo dục. Trong quá trình chỉ đạo công tác khoa học và giáo dục, Anh Văn luôn đặt lên hàng đầu vấn đề chiến lược con người, chiến lược giáo dục và đào tạo con người; chú trọng vấn đề đổi mới tổ chức và quản lý nhằm tạo ra một môi trường thực sự dân chủ, tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài, khuyến khích tư duy độc lập và sáng tạo trong hoạt động khoa học. Với tinh thần dân chủ, khoa học, trung thực, bình đẳng và công tâm, anh đã tập hợp và phát huy được trí tuệ và tinh thần sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học và giáo dục, hướng mọi hoạt động vào việc phục vụ có hiệu quả các mục tiêu kinh tế và xã hội. Những bài viết, bài nói của anh đầy tính trí tuệ và nhiệt tình khoa học. Những cống hiến của anh vào sự nghiệp khoa học và giáo dục đã góp phần quan trọng tạo nên những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đi lên của nền khoa học và nền giáo dục nước nhà.

Năm 1992, rời khỏi mọi cương vị lãnh đạo và chỉ đạo trong Đảng và Chính phủ, nhưng với tâm niệm suốt đời "dĩ công vi thượng" và trách nhiệm của một công dân đối với đất nước, Anh Văn không bao giờ tự cho phép bản thân ngừng học hỏi và làm việc. Anh tích cực tham gia công tác nghiên cứu lý luận, đặc biệt là nghiên cứu và phổ biến tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Tuy tuổi cao, nhưng anh vẫn say sưa học tập, say sưa làm việc, theo dõi và cập nhật tình hình trong nước và quốc tế. Luôn quan tâm đến tình hình phát triển của đất nước và đời sống của nhân dân, anh tự đặt cho mình nhiệm vụ tham gia đóng góp ý kiến vào những vấn đề lớn thuộc về chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, những vấn đề có tầm quan trọng, chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh, ngoại giao, văn hóa, giáo dục, khoa học và kỹ thuật… Những tháng gần đây, tuổi cao sức yếu, nhưng anh vẫn trăn trở suy nghĩ về công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, vẫn hết lòng đóng góp với Đảng và Nhà nước những vấn đề mà anh cho là quan trọng.

Với chúng tôi, những người được trực tiếp giúp việc Anh Văn, Đại tướng là một tấm gương mẫu mực. Một con người luôn "dĩ công vi thượng", hết lòng vì nước, vì dân, luôn đặt lợi ích của chung lên trên hết, có ý thức trách nhiệm rất cao đối với tương lai đất nước và vận mệnh dân tộc; sống liêm khiết, công tâm, chính trực. Một nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, nhìn xa trông rộng và có năng lực chỉ đạo chiến lược không chỉ trong quân sự mà cả trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại, khoa học và giáo dục. Một nhà lãnh đạo có tri thức, luôn coi trọng tự học tập, tự nghiên cứu, tập hợp trí tuệ tập thể, của chuyên gia, của các nhà khoa học và những kinh nghiệm thực tiễn ở trong nước và trên thế giới để làm giàu thêm trí tuệ của mình, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và năng lực hành động.

Đại tướng là một nhà lãnh đạo luôn gắn liền lý luận với thực tiễn, coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, nghiên cứu tổng kết thực tiễn để rút ra bài học kinh nghiệm và tìm ra quy luật để chỉ đạo hành động. Anh luôn khuyến khích tư duy độc lập, sáng tạo và tinh thần đổi mới, nhằm tìm ra phương sách phù hợp với thực tiễn, không bảo thủ, giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Một nhà lãnh đạo cấp cao nhưng luôn sống bình dị, nhân nghĩa, thủy chung với đồng chí, đồng đội, dân chủ, bình đẳng, tôn trọng, thương yêu và rộng lượng với mọi người.

Hạnh phúc lớn nhất của anh là được sự tin yêu, kính trọng và ủng hộ của đồng bào và chiến sỹ trong cả nước, sự kính trọng của nguyên thủ quốc gia nhiều nước và bạn bè quốc tế. Tình cảm quý báu ấy là phần thưởng cao quý nhất, là nguồn động viên lớn nhất giúp anh vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, hoàn thành mọi nhiệm vụ được quốc dân giao phó.

Anh rời khỏi cương vị lãnh đạo gần 20 năm nhưng hằng năm, tại ngôi nhà số 30 Hoàng Diệu (Ba Đình - Hà Nội), nơi anh sống và làm việc trong hơn nửa thế kỷ, vào những ngày lễ, tết, sinh nhật, luôn có nhiều đoàn trong nước và quốc tế đến thăm hỏi chúc mừng. Trong phòng tiếp khách của anh đã có hàng trăm tặng phẩm, ngoài những tập thơ, những bản nhạc, những cuốn sách, các tập đĩa và băng hình còn có nhiều bức trướng và câu đối, nhiều bức tranh, ảnh, tượng chân dung…

Một gia đình cách mạng đã ghi tặng Đại tướng câu đối:
Văn võ song toàn lừng danh tướng
Tâm hồn đức độ xứng hiền nhân.
Năm 1996, Giáo sư Bùi Trọng Liễu, từ Đại học Paris gửi về tặng Đại tướng một bài thơ khắc trên tấm bia đá:
Trời Nam đâu được mấy ai,
Thư sinh mà lại sẵn tài lược thao.
Ra quân dưới ngọn cờ đào,
Điện Biên sấm sét thuở nào còn vang.
Sao vàng chói lọi hào quang,
Mừng xuân toàn thắng, sử vàng ghi công.
Từ xa, nâng chén rượu nồng,
Mong rằng: hậu thế sẽ trông gương lành.
Mười chữ vàng Giáo sư Vũ Khiêu đề từ được thêu trên bức trướng do Viện Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh kính tặng đã nói lên một cách xúc tích công lao và đức độ của Anh Văn:

Võ công truyền quốc sử
Văn đức quán nhân tâm

Chúng tôi tự hào vì được sống và làm việc bên cạnh Anh Văn - người con anh hùng của dân tộc, một "Vị tướng của nhân dân", người "Anh Cả của Quân đội nhân dân", như đồng bào và chiến sỹ vẫn thường gọi: "Anh - người đã mang lại niềm tự hào cho non sông, đất nước!".

Ngày 31-8-2010
Đại tá Trịnh Nguyên Huân và Đại tá Nguyễn Huyên
(Trợ lý của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Văn lo vận nước - Võ thấu lòng dân

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.