(HNM) - Tại hội thảo khoa học
Ung thư vú có thể kiểm soát được bằng khám sức khỏe định kỳ, tự thăm khám. |
Theo số liệu của Viện Nghiên cứu phòng chống ung thư - Bệnh viện K, mỗi năm có khoảng 12.000 trường hợp mới mắc căn bệnh UTV, hơn 4.000 ca tử vong (chiếm 20% trong tổng số các loại bệnh ung thư). Trong 15 năm trở lại đây, số ca mắc UTV liên tục tăng nhanh, chiếm hàng thứ nhất trong các loại bệnh ung thư ở phụ nữ.
Theo Phó Giám đốc Bệnh viện K Trần Văn Thuấn, trên thế giới, tỷ lệ sống khi mắc UTV đã tăng lên nhờ bệnh nhân được chẩn đoán sớm, nhờ áp dụng các phương pháp điều trị mới. Bởi vậy, việc tầm soát và phát hiện sớm UTV có ý nghĩa rất lớn trong tiến trình điều trị căn bệnh này. Nếu được phát hiện khi bệnh ở giai đoạn đầu, tỷ lệ chữa khỏi bệnh lên tới hơn 80-90%.
Những năm gần đây, Việt Nam đã đẩy mạnh việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng về phòng chống bệnh UTV. Tuy thế, thống kê cho thấy còn một tỷ lệ đáng kể bệnh nhân được chẩn đoán, phát hiện UTV khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, đồng nghĩa với chất lượng điều trị và chất lượng sống của người bệnh đều hạn chế, chi phí điều trị đắt đỏ, tỷ lệ sống sót không cao. Nhiều gia đình, chỉ vì dồn sức cứu chữa cho người thân mà lâm cảnh nợ nần, khánh kiệt.
Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để sớm phát hiện bệnh và không rơi vào cảnh bần cùng vì bệnh UTV? GS.TS Nguyễn Bá Đức cho rằng, điều quan trọng là người bệnh phải biết "lắng nghe cơ thể mình", đồng thời tạo thói quen đi khám sức khỏe định kỳ và khám khi có bất cứ dấu hiện bất thường nào.
Có nhiều biện pháp điều trị UTV: Phẫu thuật, xạ trị cũng như kết hợp với các phương pháp điều trị khác (liệu pháp nội tiết tố, liệu pháp sinh học). Tuy nhiên, giải pháp then chốt vẫn là tìm cách phát hiện bệnh sớm. Việc tầm soát, phát hiện sớm UTV không chỉ có ý nghĩa nâng cao cơ hội điều trị bệnh hiệu quả, mà còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội to lớn.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.