Ba là, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, thực hiện tốt công tác dự báo chiến lược; chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, giải pháp bảo vệ Tổ quốc.
Công tác dự báo và tham mưu chiến lược có vai trò rất quan trọng. Dự báo đúng thì tham mưu đúng, hành động đúng và nếu dự báo sai thì sẽ tham mưu sai, hành động sai. Để thực hiện tốt công tác này, các đơn vị trong toàn quân, nhất là cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng phải thường xuyên quán triệt, nắm vững Nghị quyết số 347-NQ/QUTƯ ngày 23-5-2015 của Quân ủy Trung ương “Về nâng cao chất lượng tham mưu và dự báo chiến lược quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Đồng thời, chủ động phối hợp với các lực lượng, nhất là lực lượng Công an, Đối ngoại để nắm chắc những biến động, dự báo chính xác tình hình thế giới, khu vực, trong nước, trên Biển Đông, biên giới và nội địa. Trên cơ sở đó, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc và đối sách xử lý hiệu quả các tình huống và trong quan hệ đối ngoại; bảo đảm không bị động, bất ngờ về chiến lược, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo tình hình phải được triển khai chặt chẽ, nền nếp ở tất cả các cấp, nhất là cấp chiến lược.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đang đặt ra những yêu cầu mới rất cao. Các đơn vị toàn quân, nhất là các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, đơn vị đóng quân ở vùng biển, đảo, biên giới, phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác, duy trì nghiêm các chế độ trực sẵn sàng chiến đấu. Cơ quan quân sự địa phương các cấp phải thường xuyên phối hợp với lực lượng Công an, Biên phòng tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo công tác quân sự, quốc phòng và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
Trong tình hình mới, Quân đội phải tập trung quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chủ trương và nhiệm vụ đối ngoại được xác định trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết số 22-NQ/TƯ của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Hội nhập quốc tế”; Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X, trực tiếp là Nghị quyết số 806-NQ/QUTƯ của Quân ủy Trung ương về “Hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng theo phương châm: “Tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”, nâng cao năng lực đánh giá, dự báo tình hình, vận dụng sáng tạo đường lối đối ngoại của Đảng để xử lý đúng đắn những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong quan hệ quốc tế về lĩnh vực quốc phòng.
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Cấp ủy, chỉ huy các cấp phải chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về tổ chức lực lượng Quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Quá trình xây dựng, kiện toàn tổ chức, biên chế lực lượng phải bảo đảm yêu cầu “tinh, gọn, mạnh, linh hoạt”, cân đối cơ cấu hợp lý giữa các thành phần quân chủng, binh chủng, giữa khối cơ quan và đơn vị, giữa khối chiến đấu và phục vụ chiến đấu, ưu tiên đảm bảo quân số cho các đơn vị tiến thẳng lên hiện đại, đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu trên tuyến biên giới, biển, đảo. Để nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của bộ đội, phải thường xuyên coi trọng công tác huấn luyện. Trên cơ sở quán triệt, thực hiện Nghị quyết số 765-NQ/QUTƯ ngày 20-12-2012 của Quân ủy Trung ương về “Nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo”, các đơn vị cần tích cực đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp huấn luyện chiến đấu theo hướng: “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”; coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát với thực tế chiến đấu, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng tác chiến và địa bàn hoạt động. Trong đó, chú trọng nâng cao khả năng khai thác, sử dụng thuần thục các loại vũ khí, trang bị hiện có, nhất là các loại vũ khí, trang bị, phương tiện mới, hiện đại. Đồng thời, tăng cường tổ chức diễn tập tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng và diễn tập hiệp đồng với các lực lượng trong khu vực phòng thủ ở các quy mô khác nhau; diễn tập và huấn luyện các lực lượng đặc nhiệm, tác chiến biển, đảo, cứu hộ cứu nạn, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai,... nhằm nâng cao năng lực tổ chức, chỉ huy, điều hành của đội ngũ cán bộ các cấp, tạo bước chuyển biến mới, vững chắc trong công tác huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu.
Các cơ quan, đơn vị cần triển khai thực hiện công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu có trọng tâm, trọng điểm, tập trung giải quyết dứt điểm mặt yếu, khâu yếu, xác định rõ khâu đột phá trong từng năm, từng giai đoạn, làm cơ sở để xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Trước hết, cần chú trọng nâng cao trình độ chính quy trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, quản lý bộ đội, quản lý vũ khí, trang bị kỹ thuật, thống nhất về lễ tiết, tác phong quân nhân và thực hiện nền nếp các chế độ quy định. Phải kết hợp chặt chẽ xây dựng chính quy với công tác rèn luyện kỷ luật tạo bước phát triển mới, sự chuyển biến tích cực về chấp hành kỷ luật Quân đội, pháp luật của Nhà nước; phấn đấu giảm tỷ lệ vi phạm kỷ luật thông thường và hạn chế đến mức thấp nhất các vụ việc nghiêm trọng, nhất là mất an toàn trong huấn luyện, diễn tập, lao động sản xuất và khi tham gia giao thông.
Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác hậu cần, kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trước hết, cần bảo đảm tốt hậu cần, kỹ thuật cho nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu, phòng, chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn và các nhiệm vụ đột xuất khác; trong đó ưu tiên đảm bảo cho các lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới. Chú trọng nghiên cứu, quy hoạch, xây dựng hệ thống kho tàng hậu cần, kỹ thuật cấp chiến dịch, chiến lược trên các địa bàn trọng yếu về quốc phòng, an ninh, các căn cứ hậu cần, kỹ thuật của khu vực phòng thủ, nhằm đáp ứng yêu cầu tác chiến của các lực lượng khi có tình huống xảy ra. Phải coi trọng quản lý, khai thác, nâng cao hệ số kỹ thuật và duy trì đồng bộ vũ khí, trang bị kỹ thuật, nhất là các loại vũ khí, trang bị mới, hiện đại của lực lượng Phòng không - Không quân, Hải quân, Thông tin liên lạc, Tác chiến điện tử, Trinh sát kỹ thuật, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội.
Đặc biệt, phải tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 06-NQ/TƯ ngày 16-7-2011 của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; trọng tâm là triển khai quy hoạch xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035; tập trung vào các chương trình, dự án trọng điểm, nhằm bảo đảm vũ khí, trang bị cho Quân đội. Trong đó, phấn đấu làm chủ công nghệ chế tạo một số loại vũ khí, trang bị mới, hiện đại cho lục quân và các quân chủng, binh chủng, từng bước xây dựng nền công nghiệp quốc phòng độc lập, tự chủ, hiện đại. Cùng với đó, phải quan tâm đúng mức, tạo sự chuyển biến tích cực, toàn diện, vững chắc các mặt công tác khác, như: Nghiên cứu khoa học quân sự, kế hoạch - đầu tư, tài chính, pháp chế, tư pháp, thanh tra, dân tộc, chính sách,… góp phần xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại, đảm bảo cho Quân đội hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Năm là, tích cực tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, tạo nền tảng vững chắc để tăng cường sức mạnh quốc phòng là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt. Các cơ quan, đơn vị toàn quân cần chủ động, tích cực tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên địa bàn, nhất là ở khu vực biên giới, biển, đảo. Đặc biệt, cơ quan quân sự các cấp phải đề cao trách nhiệm, phát huy vai trò nòng cốt, phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể địa phương tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, tổ chức triển khai xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
Trước hết, phải chú trọng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trong tình hình mới. Trong quá trình thực hiện phải thấu suốt quan điểm của Đảng về mục tiêu, yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện cả về tiềm lực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh; đồng thời gắn chặt với nền an ninh nhân dân ở từng khu vực, nhất là các địa bàn chiến lược, trọng điểm về quốc phòng, an ninh, nhằm đáp ứng tốt nhiệm vụ trong thời bình và thời chiến.
Để xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống, các cấp, các ngành, các địa phương và lực lượng vũ trang cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 28/NQTƯ và Nghị định số 152-NĐ/CP ngày 10-10-2007 của Chính phủ về “Khu vực phòng thủ”; chú trọng phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quân sự trong khu vực phòng thủ. Quá trình xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải đặc biệt coi trọng “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở bằng các chủ trương, chính sách hợp lòng dân và các chương trình, dự án, góp phần xóa đói, giảm nghèo, củng cố lòng tin vững chắc của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Kỷ niệm 70 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 - 19/12/2016) là dịp chúng ta ôn lại và tự hào về truyền thống của dân tộc, về những ngày tháng hào hùng mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tuy sự kiện lịch sử trọng đại này đã lùi xa, song ý chí sắt đá, tinh thần quyết tâm “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, sẵn sàng “hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”... vẫn vẹn nguyên trong mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội. Phát huy tinh thần toàn quốc kháng chiến, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh xây dựng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, tạo cơ sở cho việc thực hiện quyết tâm bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.