Hạt tiêu hay còn gọi là hồ tiêu, tiêu là cây dây leo. Các nhánh của thân có những rễ móc để đính thân cây vào giá tựa. Lá đơn, mọc so le, có cuống; phiến hình trái xoan nhọn, dài.
Cụm hoa là những bông thõng xuống mang nhiều hoa. Quả mọng không cuống, đường kính cỡ 4-8mm, lúc non màu lục rồi vàng và khi chín có màu đỏ. Hạt tròn, cứng, có mùi thơm và vị cay. Cây ra hoa và quả vào tháng 5-8.
Cây tiêu. |
Hạt tiêu là loại gia vị phổ biến và quen thuộc ở khắp nơi trên thế giới. Ở nước ta, cây được trồng nhiều ở các vùng đất bazan từ Quảng Trị vào đến các tỉnh Tây Nguyên, Nam Bộ. Có 2 loại hạt tiêu: tiêu đen và tiêu trắng (tiêu sọ). Hạt tiêu đen là quả hái lúc chưa chín, đem phơi khô, vỏ nhăn nheo, có màu đen. Tiêu trắng là quả hái lúc quả thật chín, loại bỏ vỏ ngoài, chỉ giữ phần hạt, đem phơi nắng sẽ có hạt trắng ngà, xám. Tiêu sọ ít thơm hơn tiêu đen do lớp vỏ chứa tinh dầu đã bị loại bỏ nhưng cay hơn.
Theo y học cổ truyền, hạt tiêu có vị cay, tính nóng, có mùi thơm; có tác dụng trừ hàn, làm ấm bụng, giảm đau, tiêu thực, kích thích sự tiết dịch vị kháng khuẩn, diệt trùng,... Thường dùng làm thuốc kích thích tiêu hoá, giảm đau, trị đau bụng lạnh, tiêu chảy, nôn mửa, sâu răng,...
Một số bài thuốc thường dùng
Chữa đi lỏng, nôn: Hạt tiêu sọ, bán hạ chế, hai vị lượng bằng nhau, tán nhỏ, làm viên bằng hạt đậu. Ngày dùng 15-20 viên, khi uống dùng nước gừng chiêu thuốc. Hoặc: Tiêu sọ 20g giã nát, củ riềng già 50g tán bột, vỏ quýt khô 30g cắt nhỏ, tất cả ngâm với nửa lít rượu trắng trong 15 - 20 ngày. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 15ml. Dùng 3 ngày.
Hạt tiêu đen và tiêu trắng. |
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.