Ở sâu thăm thẳm dưới những giếng than, những người nhem nhẻm, chân cẳng khẳng khiu, cũng đen nhẻm, hì hụi cuốc, đào, xúc để rồi cuối tháng, xòe bàn tay đen nhẻm, nhận lấy những đồng tiền đầy muội than.

Ở sâu thăm thẳm dưới những giếng than, những người nhem nhẻm, chân cẳng khẳng khiu, cũng đen nhẻm, hì hụi cuốc, đào, xúc để rồi cuối tháng, xòe bàn tay đen nhẻm, nhận lấy những đồng tiền đầy muội than.
Ở mỏ than thổ phỉ Cổ Kênh này, may mắn thay, chưa xảy ra vụ nổ nào. Nhưng sập hầm thì có. “Sập lò thì làm sao mà sống được”, một thổ phỉ trả lời tôi như vậy. Anh xòe đôi bàn tay to bè đen nhẻm mà tính rằng từ hai năm nay, sơn thần thổ địa đã lấy đi 5 mạng người: “Thằng A. chết phòi máu tai; thằng B. bị vùi cả người bầm máu, tím ngắt như miếng tiết trâu”. Người nông dân chính gốc Chí Linh ấy thong thả kể về những cái chết của những người bạn, xen kẽ giữa câu chuyện là những tiếng điếu cày tắc nghẹt: “Đấy là cái số. Ông trời định. Chẳng ai nói trước được ngày mai”
Những cơn mù đen là điều ấn tượng nhất với những người đi vào vùng than này. Chúng tôi ở Sao Đỏ (Hải Dương) hỏi thăm đường vào vùng than thổ phỉ Cổ Kênh liền được một anh hàng cơm tay xắn móng lợn, mặt bóng nhẫy nguyên trước đây từng ở "bưởng" chỉ bằng đầu mũi con dao: "Đấy, cứ đi theo mấy chiếc công nông đen đen kia là tới". Nói đoạn, vị hàng cơm, nguyên là thổ phỉ than này cười: "Ăn mặc thế mà vào đấy thì..."... Đoạn lại lắc đầu. Thời trang vùng than, thực ra đấy là phát kiến của con người để chống lại mù đen, là ủng cao tới gối, áo đi mưa và "nồi cơm điện". Nhưng như thế vẫn không tránh được bụi than. Bụi than là thứ bụi gặp trời hanh, chúng bay lảng bảng tà tà, đặc trong từng mét không khí, để rồi hễ đến lúc trời mưa thì tạo thành thứ bùn đen đặc sền sệt. Mỗi khi những chiếc công nông nhảy chồm chồm trên con đường đã hết khấu hao là dân tình đi đường dạt hết xuống ven ruộng. Muội than chui vào tai, vào kẽ mắt, vào bất cứ cái gì hở ra. Những lớp bụi dày, đặc và ken quánh lớp lớp quây quẩn, đóng bánh trên những vạt cỏ đen đúa, bên những ruộng lúa còi cọc, bên những thân cây bất hạnh và những ngôi nhà ven đường như thể chúng được phủ những lớp hắc ín. 5 km đường từ Sao Đỏ vào đến Cổ Kênh con đường vắng hoe. Cư dân hầu hết đều rời xa chốn bụi đến tổn thọ này. Có những đoạn đường, bụi dày đến nửa gang tay. Thi thoảng chỉ có một chợ cóc ven đường bày mấy chiếc bàn với dăm miếng đậu, ít thịt bèo nhèo tất tật được đựng trong hộp nhựa. Người bán, còn khốn khổ hơn cả người mua, tất nhiên cũng sùm sụp những khăn, mũ, khẩu trang chống bụi.
Than thở phỉ Hải Dương tập trung chủ yếu ở An Lạc với những mỏ tại các khu ruộng trũng Trại Nễ, Bờ Dọc và Cổ Kênh, Kênh Mai thuộc xã Thái Học, huyện Chí Linh. Chếch một chút, ở bên Thái Học, có than, chủ yếu ở thôn Miếu Sơn. Vỉa than này dài những nửa cây số. Các mỏ lộ thiên giờ trơ hốc như những con mắt khổng lồ đen ngòm. Những mỏ này, ít năm trước có một vài đơn vị Nhà nước vào khai thác với quy mô không lớn, mấy năm nay, có thêm tư nhân cùng nhảy vào khai thác mà chúng ta vẫn gọi là thổ phỉ. Phương tiện khai thác than là máy tời, gầu gỗ, cọc chống làm bằng gỗ bạch đàn, tất nhiên còn có bàn tay, đôi vai và tính mạng của các phu thổ cửu vạn. Cũng chỉ cần có thế thôi là các lộ than thổ phỉ này đã khai thác trái phép hơn 150.000 tấn than các loại.
Chúng tôi gặp Lân, một bưởng đến từ Quảng Ninh. Anh này vốn xuất thân từ phu thổ phỉ đã mười mấy năm đi đội than thuê hồi các bưởng thổ phỉ còn hoành hành ở các vùng Mạo Khê, Đông Triều - Quảng Ninh. Lân cho rằng số mình đen, mạng mộc, phải gắn với thổ, chui xuống thì còn kiếm được miếng ăn, lên khỏi mặt đất là đói bụng. Cách đây ít năm, ngẫm cực quá, Lân đã bỏ "nghề phu thổ" lên Hòn Gai, đi TP Hải Dương, thậm chí lên cả Hà Nội để kiếm việc làm, nhưng, như anh nói về sinh mạng của mình, cứ xa cái lỗ than ra là chết. Ở quê nhà, một xã vùng "đồi không ra đồi, đồng bằng không ra đồng bằng" thuộc huyện Hoành Bồ - Quảng Ninh có tới năm miệng ăn đang trông chờ vào anh, vào mấy cái lỗ than thổ phỉ này. Thổ phỉ Cổ Kênh, cứ như Lân, nói chính xác ra đều là những người quẫn, siêng và bế tắc trong cuộc mưu sinh. Ai cũng biết đói, mà đói thì "đầu gối phải bò" dẫu đó là công việc gì nữa. Không, chẳng có ai nghĩ đến sự nguy hiểm cả. Theo báo cáo của Huyện ủy Chí Linh, tại 3 xã Văn Đức, An Lạc, Thái Học việc khai thác than trái phép diễn ra rất công khai với hơn 100 lò khai thác trái phép. Rồi, cũng theo các báo cáo này thì than thổ phỉ đến đồng nghĩa với hàng loạt các tệ nạn xã hội: nghiện hút, cờ bạc, tranh mua, tranh bán, tranh nhau trong cả việc bán đất dai để khai thác than. Chính quyền đã vào cuộc, chủ yếu ở góc độ bảo vệ tài nguyên đất nước. Công an Hải Dương đã có những cuộc điều tra quy mô về vùng than. Huyện ủy Chí Linh thậm chí còn đề ra những biện pháp rất mạnh như việc kiểm soát chặt chẽ các bến phà, bến cảng, tuyến đường vận chuyển than ra khỏi địa bàn để khống chế thu giữ số lượng than khai thác trái phép. Ngành điện cũng được huy động để ngăn chặn triệt để việc sử dụng điện sinh hoạt vào khai thác tài nguyên. Chỉ thị của Huyện ủy Chí Linh cũng nêu rõ sẽ xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với các cán bộ, đảng viên vi phạm trong lĩnh vực khai thác than trái phép. Tất cả những điều đó vẫn không làm giảm bớt được vấn nạn than thổ phỉ. Tất cả điều đó những người phu thổ như Lân đều biết. Biết rồi thôi.
Chiều sụp xuống rất nhanh. Ánh dương vàng vọt le lói ít ánh sáng cuối cùng. Đến giờ “đổi ca”. Một anh phu thổ được kéo lên từ miệng lò. Anh này lên đến nơi thì mệt lả đổ vật, miệng mũi tai thi nhau hớp khí. Đấy là cơn say khí trời. Lân giải thích. Chúng tôi ngồi hút thuốc lào vã bên miệng lò than. Hít vào khói trắng nhả ra đã nhuộm thành đen, lát thè lưỡi ra đã thấy đầy thứ bụi đen. Ở vùng than này, theo thống kê của cơ quan chức năng, cả thảy có gần 500 phu thổ đang “ngụp lặn” trong lòng đất. Cái giá của việc chui lò, đùa giỡn với tử thần là năm trăm ngàn đồng đến một triệu rưỡi đồng một tháng. Miệng lò than được chằng bằng gỗ, rộng chừng nửa chiếc chiếu con, miệng lò sâu hoăm hoắm cạp bằng những thân gỗ bạch đàn, những tấm gỗ tạp mốc thếch. Không hề có một phương tiện bảo hiểm nào ngoài một cuộn dây thừng to cỡ ngón chân cái. Đấy cũng là phương tiện chui lên, chui xuống của phu thổ. Không có chủ lò nào nói về tai nạn ngoài những câu chuyện kể của Lân. Đấy là những cái chết "thất khiếu tứa máu", đấy là những cái chết "tím bầm như miếng tiết trâu", những cái chết không vẹn toàn. Lân kể, giọng đều đều vô cảm như thể đó là việc của người khác chứ không phải của anh. Không biết từ bao giờ ở vùng than thổ phỉ này đã có một quy luật bất thành văn: "Mỗi một lần chết của cửu vạn vì sập lò sẽ được bồi thường 25 triệu đồng". Và hết. Thôi không kiện cáo.
Mỏ than như bãi chiến trường. Lũ lượt người. Miệng miệng lò. Hố than sâu hun hút. Vòng tời cả ôm thun thút dưới đáy. Những đôi mắt ngái ngủ, đỏ quạch. Cơm chan bụi. Không còn cả nước mắt. Lò này còn nông, chừng 20 m, mới nửa vòng tời. Phải xuống sâu, sâu nữa mới có nhiều than và than mới đắt. Chỉ có một ít gỗ cạp miệng lò. Ở đây nhà nào cũng có lò than, có vỉa than nhưng ngoài gần dòng kênh Sắn nối với sông Kinh Thầy mới là mỏ lớn. Và sập lò chết người. Phải chăng đó là cái kết cục cuối cùng cho những anh nông dân hết "đát" phải đi làm thổ phỉ chui lò trộm than như Lân?!
Theo ĐĐK