(HNM) - Có thể nói, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học có hiệu lực từ ngày 1-7-2019 đã chính thức xác nhận những nội dung mở rộng phạm vi quyền tự chủ của các trường đại học, tạo ra bước thay đổi căn bản trong hệ thống giáo dục đại học công lập ở nước ta.
Như vậy, hành lang pháp lý đã có, “nút thắt” thực hiện quyền tự chủ của các trường đại học công lập được tháo gỡ. Vấn đề còn lại phụ thuộc vào sự năng động, chủ động, sáng tạo của mỗi trường trong xây dựng chiến lược phát triển; làm thế nào để vừa đáp ứng nhu cầu của người học, vừa “trụ” được trong thời kỳ hội nhập cạnh tranh hiện nay.
Thực tiễn thí điểm quyền tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP của Chính phủ về “thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017” tại 23 cơ sở giáo dục đại học trên cả nước, nhìn chung đã đạt được những kết quả tích cực. Song, bên cạnh đó việc thực hiện cơ chế này vẫn gặp không ít khó khăn, đặc biệt là nguồn thu cho các trường sau khi tự chủ. Bởi không phải trường đại học nào cũng có thể thu hút được các nguồn lực xã hội hóa, mà vẫn chỉ dựa vào nguồn thu từ tăng quy mô đào tạo, học phí.
Nhận diện rõ cơ hội cũng như những khó khăn này là cách duy nhất để các trường chủ động tìm giải pháp thực hiện tốt cơ chế tự chủ.
Tự chủ không có nghĩa là Nhà nước “bỏ rơi” các trường, để các trường tự lo mà là thay đổi phương thức quản lý. Sự thay đổi rõ nhất là thay vì bao cấp chung chung, thì giờ các khoản tiền gắn liền với các "đơn đặt hàng" của các cơ quan quản lý và cả đơn vị, doanh nghiệp... cũng như sản phẩm hiệu quả từ các nhà trường tạo ra.
Bởi thế, về phía cơ quan quản lý, cần sớm ban hành các văn bản pháp quy liên quan. Trong đó, cần phân định rõ các loại hình cơ sở giáo dục đại học tự chủ, như: Tự chủ hoàn toàn cả chi thường xuyên và chi đầu tư; tự chủ chi thường xuyên và một phần chi đầu tư; tự chủ chi thường xuyên còn đầu tư vẫn phụ thuộc thêm một thời gian vào Nhà nước… Điều này giúp các trường xác định được lộ trình từng bước tự chủ, rồi tách khỏi sự bao cấp của nhà nước một cách phù hợp.
Cùng với đó, rõ ràng các trường cũng phải có đủ năng lực, đủ khả năng để đáp ứng yêu cầu từ những “đơn đặt hàng” đào tạo. Nếu trường nào có năng lực, chủ động thì sẽ thích ứng với yêu cầu về tự chủ. Qua đó, nguồn thu của nhà trường và nguồn thu của cán bộ, giảng viên sẽ tốt hơn.
Muốn vậy - hàng loạt nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài cần được các trường thực hiện. Đó là tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới phương pháp dạy gắn với thực tiễn, nhu cầu của xã hội, không đào tạo tràn lan. Cùng với việc mở rộng cơ hội, chất lượng học tập cho sinh viên bằng cách tăng cường liên kết với nhiều trường đại học trên thế giới, các trường cần chủ động xây dựng các chương trình đào tạo chất lượng cao theo chuẩn quốc tế, hợp tác với các doanh nghiệp trong đào tạo theo nhu cầu thị trường lao động.
Các giảng viên đại học cũng phải tự vận động và đổi mới chính mình, năng động để thích ứng và có thể hoàn thành được một khối lượng công việc nhiều hơn, hiệu quả hơn. Bản thân cán bộ, giảng viên có thể tìm kiếm đề tài nghiên cứu khoa học, hợp đồng, “đơn đặt hàng” cho khoa, cho trường, qua đó góp phần làm nên thương hiệu của nhà trường.
Các trường được tự chủ đồng thời phải thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học đối với người học, xã hội, cơ quan quản lý... Đặc biệt, rất cần công khai điều kiện bảo đảm chất lượng, kết quả kiểm định và tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm - thước đo năng lực, thương hiệu của nhà trường.
Tất cả nhằm bảo đảm hài hòa giữa chất lượng đào tạo, quyền lợi của người học và lợi ích của nhà trường.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.