(HNM) - Trung tâm (TT) Chống độc, Bệnh viện (BV) Bạch Mai những ngày này vẫn chìm trong không khí ngột ngạt, nhiều ông bố, bà mẹ đứng ngồi đợi đến lượt khám, xét nghiệm chì cho con. Do số lượng trẻ đến khám tăng đột biến, TT phải dành hẳn một phòng riêng tiếp đón, điều trị cho bệnh nhi nhiễm chì. Tính trung bình mỗi ngày có tới 50-70 cháu đến làm xét nghiệm và 10% trong số này phải nhập viện ngay vì nhiễm chì quá nặng.
Tại phòng bệnh dành riêng điều trị bệnh nhân ngộ độc chì, TT Chống độc BV Bạch Mai, anh Dương Mạnh Dũng, ở Mai Đình (Sóc Sơn, Hà Nội) đã phải túc trực suốt 2 ngày để chăm sóc con nhỏ mới 5 tháng tuổi. Anh Dũng kể, cách đây vài tuần, con anh bị loét miệng với những vết bợt trắng và chảy dãi suốt ngày. Vừa hay bà nội cháu ở Thanh Hóa lên chơi thấy thế liền về quê mua mấy gói thuốc cam của một thầy lang gia truyền gửi lên. Theo đúng hướng dẫn, anh cho con uống 2 đợt, mỗi đợt 5 ngày. Tuy nhiên, bệnh tình của con không đỡ, cháu bé nôn nhiều hơn, quấy khóc vật vã, cứ luôn tay vò đầu bứt tóc. Thấy vậy, anh vội đưa con đến BV Nhi TƯ khám, rồi được chuyển sang BV Saint Paul xét nghiệm. Kết quả cho thấy nồng độ chì trong máu của bé lên đến 87,5microgam/100ml (cao gấp 4 lần hàm lượng cho phép) nên được chuyển sang TT Chống độc, BV Bạch Mai điều trị.
Điều trị ngộ độc chì từ thuốc cam cho bệnh nhi tại Trung tâm Chống độc (Bệnh viện Bạch Mai). |
Bà Hoàng Thị Yến, ở thôn Thanh Giã, xã Tam Dị (Lục Nam, Bắc Giang) kể: 8 đứa cháu nhà bà từ cháu ngoại đến cháu của các cô, dì, cậu, mợ... đều đi xét nghiệm tại TT Chống độc BV Bạch Mai nhưng chỉ có một mình cháu bà là Nguyễn Thảo Linh, 5 tuổi là không phải điều trị. Lúc đầu cũng có ai biết đâu, khi có một cháu bé trong làng bị nôn, co giật và phát hiện nhiễm chì do thuốc cam thì bà vội thuê xe cho các cháu đi khám, kết quả 7 trong số 8 đứa cháu nhà bà bị nhiễm. Thông tin cứ thế loang ra và từ đó cả cái xã Tam Dị "nóng" lên, nhà nhà đưa con đi khám. Trò chuyện với chúng tôi, bà Yến nói, hầu như cả xã Tam Dị, thậm chí cả huyện Lục Nam đều mua thuốc cam của bà lang Thế ở thôn Thanh Giã, xã Tam Dị (huyện Lục Nam, Bắc Giang) cho trẻ uống mỗi khi thấy chúng tưa lưỡi, biếng ăn hoặc còi xương. Còn bà Nguyễn Thị Vuông kể về trường hợp của cháu ngoại là Nguyễn Khánh An, sinh ngày 7-2-2011, đứa trẻ đầu tiên của xã Tam Dị được phát hiện nhiễm chì. Bà Vuông cho biết, khi thấy cháu bị tưa lưỡi, bà đã đến nhà bà lang Thế mua một gói thuốc cam về bôi cho cháu nhưng mãi không thấy khỏi, lại thấy cháu biếng ăn, hay nôn, hay quấy khóc, đôi khi lại lên cơn co giật nên vội vàng đưa cháu đi khám ở Bạch Mai. Kết quả, cháu bị nhiễm đến 76,8% nồng độ chì trong máu, phải nhập viện trong tình trạng cấp cứu. Đến nay, Khánh An đang phải điều trị đợt 3 và đã hạ được độ chì xuống còn 42%.
Trao đổi về vấn đề này, TS Phạm Duệ, Giám đốc TT Chống độc, BV Bạch Mai cho biết, chưa bao giờ TT phải điều trị cùng lúc cho nhiều bệnh nhi bị ngộ độc chì đến như vậy. Tính từ Tết Nguyên đán đến nay đã có hơn 130 cháu phải nhập viện, có đợt chủ yếu là trẻ dưới 3 tuổi, thậm chí cả trẻ 1 tháng tuổi cũng bị bệnh. Nhiều nhất là trẻ ở Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Hà Nội, Hòa Bình, Thanh Hóa… Cũng theo TS Phạm Duệ, chì là một chất cực độc, đặc biệt nguy hiểm đối với trẻ em, nhất là trong trường hợp ngộ độc chì cấp tính. Chì khó thải loại, vào cơ thể sẽ theo máu đến các cơ quan gan, thận, não, tủy xương, dây thần kinh, cơ… khiến trẻ đau bụng, thiếu máu, suy nhược cơ bắp, suy thận, liệt chi, liệt mắt, mất tiếng nói, sau đó co giật từng cơn. Biểu hiện này khiến nhiều người lầm tưởng trẻ mắc bệnh động kinh. Vì thế, nếu không được điều trị, trẻ dễ hôn mê và tử vong. Điều trị cho bệnh nhân ngộ độc chì có thể kéo dài hằng năm trời với những di chứng về thể chất và trí não rất khó hồi phục, ảnh hưởng tới sự phát triển, sự nhanh nhẹn và trí thông minh của trẻ. Nguy hiểm hơn, trẻ bị ngộ độc chì rất khó phát hiện. Bởi chỉ những trẻ bị rất nặng hoặc cấp tính mới có biểu hiện rõ rệt như co giật, hôn mê, có cháu thay đổi tính tình, quấy khóc, vài ba tuần thiếu máu, xanh xao, nhợt nhạt… còn lại phần lớn không có biểu hiện rõ ràng. Vì vậy, muốn chẩn đoán được ngộ độc chì nhất thiết phải xét nghiệm máu.
Còn theo một số tài liệu khác thì chì là nguyên tố độc bảng A, có thể gây ra các bệnh đường ruột, thần kinh và biến đổi gien dẫn đến quái thai. Chì cũng là chất có khả năng tích lũy theo thời gian. Nghĩa là, nếu động, thực vật bị nhiễm chì, con người ăn vào cũng sẽ bị nhiễm chì và tích tụ theo thời gian. Trẻ bị nhiễm chì cấp có thể gây tử vong. Điển hình, từ trước Tết Nguyên đán đến nay đã có tới 4 trẻ em tử vong do nhiễm chì cấp. Gần đây nhất là ngày 19-4, tại BV Nhi TƯ, một cháu bé tử vong do nhiễm độc chì có trong thuốc cam. Đó là cháu Nguyễn Thị Ngọc H., ở Hà Nội, mới 8 tháng tuổi. Bé H. được các bác sỹ kết luận tử vong do đã sử dụng thuốc cam lâu ngày, hàm lượng chì trong máu gấp 10 lần hàm lượng cho phép. Khi được chuyển đến BV Nhi TƯ cháu bé đã ở trạng thái co giật, hôn mê. Trẻ bị ngộ độc chì có trong thuốc cam đến từ 27 huyện thuộc 15 tỉnh và đáng lưu ý là hầu hết dùng "thuốc" của ông lang, bà mế, người bán dạo không rõ nguồn gốc.
Về vấn đề này, ngay sau khi có sự tăng đột biến số trẻ nhiễm chì do sử dụng thuốc cam, ngày 20-1-2012, BV Bạch Mai có Công văn số 44/CV-BVBM báo cáo về 84 trường hợp đến khám và một số phải điều trị ngộ độc chì gửi Bộ Y tế. Tiếp đó, ngày 9-4-2012, BV Bạch Mai có Công văn số 204/BVBM báo cáo: Từ tháng 11-2011 đến tháng 4-2012, TT Chống độc đã tiếp nhận 130 trường hợp đến khám về ngộ độc chì, trong đó có 121 trẻ em (93,08%). Trong số 117 bệnh nhân đã có kết quả xét nghiệm, 89 (76,07%) bệnh nhân có chì trong máu tăng >10 microgam/dl, 56/117 (47,86%) bệnh nhân có chì trong máu trên 20 microgam/dl đang được điều trị thải độc. Ngay sau khi nhận được công văn, Cục Quản lý dược, Bộ Y tế đã có công văn gửi lãnh đạo Bộ Y tế và cho rằng, do Dược điển Việt Nam chưa có chuyên luận chung quy định về giới hạn chì trong dược liệu, thuốc từ dược liệu. Do đó vấn đề đặt ra là dựa vào quy định nào để kết luận hàm lượng chì trong sản phẩm "thuốc cam" là không đạt? Điều này cũng dẫn đến các vấn đề khác, như có phải bệnh nhân ngộ độc chì đều do dùng "thuốc cam" (dù với bất kể hàm lượng chì nào). Kết luận của Viện Hóa học có giá trị đến đâu khi Viện Hóa học kết luận có tới 98/100 mẫu thuốc cam có hàm lượng chì cao. Trong khi đó, hầu hết các sản phẩm "thuốc cam" không được phép lưu hành. Nếu các sở y tế và hệ thống cơ quan kiểm tra chất lượng tiếp tục lấy mẫu nhưng không kết luận được về giới hạn chì sẽ khiến dư luận hoang mang, mất lòng tin vào thuốc Đông y nói chung và thuốc cam có đăng ký và thuốc của các cơ sở khám, chữa bệnh y học cổ truyền nói riêng.
Để trấn an dư luận, ngay sau khi có báo cáo của Cục Quản lý dược, Bộ Y tế đã yêu cầu BV Bạch Mai hoàn chỉnh phác đồ điều trị xử lý ngộ độc chì cấp tính và ngộ độc trường diễn. Đồng thời tham gia kế hoạch tập huấn cho các sở y tế trọng điểm (Bắc Giang, Phú Thọ, Hà Nội, Thái Nguyên…). Cục Quản lý khám, chữa bệnh chỉ đạo sở y tế các tỉnh tổng hợp báo cáo tất cả trường hợp ngộ độc chì từ năm 2009 đến nay. Đồng thời, tổ chức tập huấn cho các địa phương phác đồ xử lý ngộ độc chì, xác định nhu cầu thuốc xử lý ngộ độc chì để lên kế hoạch nhập khẩu. Viện Kiểm nghiệm thuốc trung ương tăng cường lấy mẫu kiểm tra các loại thuốc cam trên thị trường. Hội đồng Dược điển Việt Nam có kế hoạch xây dựng chuyên luận về chỉ tiêu giới hạn kim loại nặng (chì, asen…) trong dược liệu, thuốc từ dược liệu. Vụ Y dược cổ truyền phối hợp với các đơn vị phân tích nguyên nhân ngộ độc, đề xuất các biện pháp tăng cường phòng chống ngộ độc chì, đặc biệt là trẻ em.
Rõ ràng, việc nhiễm chì đối với trẻ em đã diễn ra từ lâu và trên diện rộng. Tuy nhiên, sự việc chỉ bùng phát khi có trẻ em bị tử vong do nhiễm độc chì khiến bản thân cơ quan đầu ngành là Bộ Y tế cũng lúng túng trong việc tiếp nhận thông tin và xử lý tình huống. Và vấn đề trẻ em bị nhiễm chì do dùng thuốc cam hay do các nguồn thức ăn khác, thuốc cam nhiễm chì do các ông lang, bà mế hay từ chính nguồn dược liệu nhập khẩu... đến nay vẫn là những câu hỏi chưa có lời giải.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.