Kinh doanh đa ngành là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Thực hiện chủ trương này, tận dụng những lợi thế của ngành, thời gian qua Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã đầu tư kinh doanh viễn thông công cộng.
LTS: Kinh doanh đa ngành là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Thực hiện chủ trương này, tận dụng những lợi thế của ngành, thời gian qua Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã đầu tư kinh doanh viễn thông công cộng.
Sau 10 năm hoạt động, EVNTelecom không những không phát triển mà còn bị thua lỗ nặng nề. Tuy nhiên, thay vì phải tìm ra những giải pháp cải tổ yếu kém trong điều hành, quản lý và kinh doanh để cứu EVNTelecom, EVN lại vướng vào những sai phạm khác.
Là một doanh nghiệp trực thuộc EVN, EVNTelecom ra đời (năm 1995) với mục đích dựa trên cơ sở hạ tầng vững mạnh, công nghệ tiên tiến, kênh phân phối rộng khắp để cung cấp những dịch vụ tiện ích, chất lượng ổn định, giá cả cạnh tranh và đặc biệt đem đến cho khách hàng nhiều lựa chọn mới. EVN hy vọng việc đầu tư ra ngoài ngành, trong đó có viễn thông là một việc làm sẽ hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh chính là sản xuất điện đang bị mất cân đối về tài chính. Tuy nhiên, thực tế kinh doanh viễn thông những năm qua đã đem đến cho EVN từ hy vọng đến thất vọng lớn khi mà gánh nặng tài chính do sự làm ăn thua lỗ lớn gây ra...
Bỏ rơi lợi thế…
So với những đơn vị kinh doanh viễn thông, EVNTelecom là doanh nghiệp có nhiều lợi thế trong kinh doanh. Trước hết về mạng lưới kinh doanh, ngoài 10 trung tâm trực thuộc EVNTelecom còn có các đơn vị điện lực, công ty điện lực trải rộng khắp trên 63 tỉnh, thành tham gia kinh doanh dịch vụ viễn thông.
Khách hàng đăng ký sử dụng điện thoại cố định không dây của EVNTelecom. Ảnh: Như Ý |
Đặc biệt về năng lực mạng lưới (cơ sở vật chất), EVNTelecom đã tham gia vào các mạng cáp quang lớn nhất thế giới và khu vực, kết nối Việt Nam với các nước trên thế giới qua các cổng truyền dẫn quốc tế: Cổng quốc tế Móng Cái, Lạng Sơn, Mộc Bài, Khánh Bình (An Giang), Lao Bảo.
Với hệ thống cáp trên biển, EVNTelecom có thể đáp ứng nhu cầu cho sự bùng nổ băng thông rộng chất lượng cao, các dịch vụ viễn thông khác trong những năm tới và bảo đảm dự phòng an toàn cho mạng lưới viễn thông quốc gia.
Về mạng viễn thông trong nước, với mạng truyền dẫn đường trục quốc gia gồm trên 40.000km cáp quang, mạng truyền dẫn của EVNTelecom đã có mặt tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nước; sử dụng hệ thống đường trục Bắc - Nam chạy song song đồng thời trên các tuyến dây tải điện 500kV, 220kV với công nghệ hiện đại và dung lượng thiết kế lên đến 400Gbps…
Hệ thống mạng truyền dẫn nội hạt của EVNTelecom có độ an toàn, tin cậy cao do được thiết lập bảo đảm chặt chẽ nguyên tắc mạch vòng bảo vệ. So với các giải pháp khác, mạng truyền dẫn của EVNTelecom đã trở thành mạng truyền dẫn có độ an toàn cao.
Bên cạnh những lợi thế về hạ tầng mạng, dịch vụ mạng CDMA 20001x của EVNTelecom thể hiện những ưu thế rõ rệt khi so sánh với các dịch vụ hữu tuyến và vô tuyến truyền thống khi triển khai cho vùng sâu, vùng xa, cung cấp đa dịch vụ trên nền một hạ tầng mạng.
Câu hỏi lớn đang được đặt ra cho EVN là tại sao có nhiều lợi thế về cơ sở vật chất cũng như con người như vậy mà viễn thông điện lực đang phải gánh những khoản lỗ rất lớn và con số lỗ này sẽ ngày càng lớn hơn khi những cơ hội kinh doanh cũng như hợp tác kinh doanh của EVNTelecom ngày càng đi vào ngõ cụt.
…tự làm thua lỗ nặng nề
Doanh thu kinh doanh các dịch vụ viễn thông của EVNTelecom giảm nghiêm trọng, cụ thể: tháng 1-2010: 180 tỷ đồng, giảm xuống 147 tỷ đồng vào tháng 1-2011 và 134 tỷ đồng vào tháng 2-2011. Trong khi đó, tổng chi phí năm 2010 của EVNTelecom là 2.957 tỷ đồng, trong đó lãi vay là 257 tỷ đồng, khấu hao cơ bản là 471 tỷ đồng, cước kết nối 303 tỷ đồng. Chi phí ngoài lãi vay và khấu hao hằng tháng của EVNTelecom bình quân khoảng 160 tỷ đồng, bao gồm các chi phí hoa hồng, thuê tài sản (cột anten, nhà trạm, cáp quang) và vận hành cho các tổng công ty (TCT) điện lực, chi phí vận hành và quản lý mạng lưới của EVNTelecom. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến cân đối doanh thu - chi phí của EVN Telecom (hằng tháng EVNTelecom còn thiếu khoảng 16 tỷ đồng cho các hoạt động thường xuyên của công ty, khoảng 10 tỷ trả lại các TCT điện lực sau khi bù trừ và thiếu khoảng 150 tỷ đồng để trả nợ gốc và lãi cho các ngân hàng).
Doanh thu CDMA chiếm tỷ trọng chi phối trong tổng doanh thu viễn thông của EVN (trung bình là 63% tổng doanh thu dịch vụ viễn thông năm 2010) đang giảm mạnh từng tháng. Cụ thể: doanh thu dịch vụ CDMA trả sau giảm từ 88 tỷ đồng vào tháng 1-2010 xuống 67 tỷ đồng vào tháng 1-2011 và 56 tỷ đồng vào tháng 2-2011.
Thực tế mạng CDMA 450 của EVNTelecom đang có lợi thế cạnh tranh cơ bản là các dịch vụ điện thoại cố định không dây (E-COM), tuy nhiên, EVN không đẩy mạnh được doanh thu do tốc độ phát triển thuê bao thực rất chậm, thuê bao rời mạng liên tục tăng, cứ phát triển 1 thuê bao thì có trung bình 7,1 thuê bao rời mạng.
Mặc dù, EVN có thế mạnh về cơ sở hạ tầng hệ thống cáp quang, nhưng thế mạnh này không phát huy được do hạ tầng bị phân tán, không được quản lý, vận hành và khai thác tập trung, khi sự cố xảy ra thì mất rất nhiều thời gian xử lý do có nhiều đầu mối quản lý (một phần do các TCT điện lực và TCT truyền tải quản lý, khai thác, một phần do EVNTelecom quản lý, khai thác). Trong giai đoạn từ năm 2005 đến nay, dịch vụ cho thuê kênh luồng trong nước và quốc tế chỉ đạt khoảng 30 tỷ đồng/tháng, không tương xứng với năng lực của hệ thống.
Hệ thống cáp quang biển IA đưa vào khai thác dịch vụ từ 2009, tuy nhiên, việc kinh doanh thuê kênh quốc tế trên IA năm 2010 chưa đạt được kế hoạch đặt ra, tổng doanh thu kinh doanh dịch vụ IA năm 2010 là 47 tỷ đồng (gồm 30 tỷ doanh thu cung cấp dịch vụ cho khách hàng và 17 tỷ doanh thu cung cấp dịch vụ nội bộ).
Việc kinh doanh các dịch vụ internet không phát triển dẫn đến hiệu quả tổng thể trong khai thác đường IA là rất thấp. Doanh thu kinh doanh dịch vụ trực tiếp trên IA và dịch vụ internet không đủ để cân đối chi phí đầu tư ban đầu cũng như chi phí vận hành của đường IA.
Tổng doanh thu các dịch vụ internet (leased lines, internet trên truyền hình cáp, ADSL, FTTx) trung bình 11 tỷ đồng/tháng trong năm 2010. Dịch vụ internet trên truyền hình đang suy giảm đáng kể, dịch vụ FTTx tăng doanh thu cuối năm 2010 nhưng vẫn không đạt kế hoạch năm 2010.
Dịch vụ 3G mới đưa vào tháng 10-2010, doanh thu đạt khoảng 2 tỷ đồng vào tháng 12-2010 và 2,2 tỷ vào tháng 2-2011 với số khách hàng phát sinh cước khoảng 45 thuê bao. Sau 5 tháng phát triển dịch vụ, số lượng khách hàng gần như không tăng, các loại dịch vụ gia tăng trên mạng 3G chưa hấp dẫn được khách hàng (do chưa tạo ra sự khác biệt so với đối thủ cạnh tranh, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng).
Năm 2010, doanh thu của EVNTelecom chỉ đạt hơn 2 nghìn tỷ đồng và lỗ khoảng hơn 1 nghìn tỷ đồng. Hệ số nợ của EVNTelecom lên đến 5,1 lần (theo đó, nợ phải trả là 7.760 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu là 1.586 tỷ đồng). Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của EVNTelecom chỉ còn 31%.
Với doanh thu của các TCT điện lực hiện nay, sau khi trừ các khoản EVNTelecom trả lại (thuê tài sản, hoa hồng...) không còn tiền để chi phí cho các hoạt động của công ty, đồng thời phải trả lại các TCT điện trung bình từ 7 đến 10 tỷ đồng/tháng. Như vậy, với kết quả kinh doanh dịch vụ CDMA chủ yếu giao cho các TCT điện lực thì EVNTelecom sẽ lỗ toàn bộ chi phí vận hành và chi phí đầu tư mạng và còn phải bù lỗ thêm khoảng 10 tỷ đồng/tháng để bảo đảm mạng CDMA phục vụ kinh doanh của các TCT điện lực.
Các khoản vay vốn và trả lãi cho các dự án đã đầu tư hoàn toàn nằm ngoài khả năng thu xếp của EVNTelecom, hiện nay không có nguồn để trả các khoản vay và lãi vay này.
Nhiều khoản nợ chưa thanh toán được cho các dự án CDMA cho các nhà thầu… với số tiền xấp xỉ 25 triệu USD, mặc dù các dự án này đã xong từ năm 2008 và đã đưa vào sử dụng. Các dự án tự đầu tư từ năm 2007 đến nay còn khoảng 30 tỷ chưa thanh toán được cho đối tác. Việc này cũng làm mất đi nhiều sự hỗ trợ tài chính của các nhà thầu cho các dự án của EVNTelecom.
Toàn bộ các chi phí thường xuyên của riêng EVNTelecom (bao gồm cả lương CBCNV, thuê nhà văn phòng, điện nước, bảo hiểm…) là 51 tỷ đồng/tháng và được cân đối dựa vào nguồn thu từ kinh doanh kênh quốc tế và trong nước, tương đương khoảng 35 tỷ đồng/tháng để cân đối. Tuy nhiên, trong 35 tỷ đồng này còn phải chí phí trả cho việc thuê kênh và lưu lượng (China Unicom, China Telecom...) nên không đủ để chi phí, thiếu ròng khoảng 16 tỷ đồng/tháng.
Như vậy, hằng tháng EVNTelecom thiếu hụt và không có khả năng thanh toán tổng cộng khoảng 176 tỷ đồng, gồm: 150 tỷ đồng tiền trả vốn và lãi vay ngân hàng (chưa tính cho dự án 3G); 10 tỷ đồng chi phí hoàn trả lại cho các TCT điện lực (sau đối soát các khoản thuê lại các PCs); 16 tỷ đồng chi phí hoạt động thường xuyên.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.