(HNMĐT)- Làng Giao Tự tên Nôm là làng Chè, đầu thế kỷ XIX là một xã thuộc tổng Kim Sơn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (từ năm 1831 là tỉnh Bắc Ninh).
![]()
(HNMĐT)- Làng Giao Tự tên Nôm là làng Chè, đầu thế kỷ XIX là một xã thuộc tổng Kim Sơn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (từ năm 1831 là tỉnh Bắc Ninh). Trong kháng chiến chống Pháp, làng nằm trong một xã lớn mang tên Quyết Thắng thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (vào đầu năm 1949 thuộc tỉnh Hưng Yên). Sau Cải cách ruộng đất (giữa 1956), xã Quyết Thắng chia thành hai xã Quyết Chiến (nay là xã Phú Thị) và Quyết Thắng (gồm các thôn : Giao Tự, Giao Tất, Kim Sơn và Linh Quy). Tháng 5 - 1961, xã cùng các xã trong huyện Gia Lâm được chuyển về Hà Nội. Năm 1965, xã Quyết Thắng đổi tên thành Kim Sơn.
Giao Tự nằm trong vùng Dâu (Luy Lâu) - một trong những nơi cư tụ sớm của người Việt, một trung tâm hành chính, văn hóa, Phật giáo ở châu thổ Bắc Bộ từ đầu thời Bắc thuộc. Làng nằm ven sông Đuống (hay sông Thiên Đức), có bãi bờ mầu mỡ. Dân làng sống bằng sản xuất nông nghịêp và chăn nuôi, ngoài ra còn thạo nghề buôn bán. Xưa kia, bến sông đầu làng là nơi trên bến dưới thuyền, buôn bán các mặt hàng từ biển lên (nước mắm, muối, các loại tôm cá); từ rừng núi xuống (tre gỗ, nứa, lá gồi, măng, mọc nhĩ…) cùng các sản phẩm nông nghiệp địa phương. Từ đây, hàng hóa được chuyển vào Kinh đô Thăng long, xuôi các trấn Hải Dương, Sơn Nam và lên miền ngược. Ca dao cũ “Lênh đênh ba mũi thuyền bè, đường sang Thiên Đức, đường về Chè, Ghênh” cho thấy điều đó.
Giao Tự có chùa Linh Tiên, là nơi bà Lý Chiêu Hoàng (1218 - 1278) - vị vua cuối cùng của nhà Lý về tu hành một thời gian, sau khi bị chồng là Trần Cảnh (Trần Thái Tông) giáng xuống làm công chúa (khoảng giữa thế kỷ XIII). Sau này, Vua Trần Anh Tông có lần đi kinh lý vùng Dâu đã đến làng Giao Tự. Đêm nằm mộng thấy bà Lý Chiêu Hoàng hiện về, bèn cho dân làng 5 thỏi vàng, 5 nén bạc và sức cho dân làng lập miếu thờ bà Lý Chiêu Hoàng,. Đến cuối thế kỷ XVII, một người trong làng là Đặng Quang Tiến, làm quan đến chức Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, tước Phương Đình hầu đã bỏ tiền bổng lộc để dân làng mua gỗ, cải tạo miếu thành đình, lại hiến ruộng cho làng nên được bầu làm hậu thần. Tấm bia trụ dựng năm Vinh Trị thứ tư (1679) ở sân đình nói rõ điều đó. Hiện tại, đình gồm đại đình 5 gian, tòa Thiêu hương và hậu cung.
Giao Tự là một làng nhỏ, năm 1928 có 546 nhân khẩu, trai đinh trong làng sinh hoạt trong 4 giáp, phân bố theo 4 xóm là : Cừ, Đỏ, Ngô, Bê. Trước đây, làng có tục kết nghĩa với làng Đa Tiện (nay thuộc xã Xuân Lâm, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Ngày 10 tháng ba, đại biểu dân làng sang dự hội làng Đa Tiện, đến 15 tháng Ba lại đón “quan Anh” Đa Tiện sang dự hội làng mình.
Hội làng Giao Tự diễn ra từ ngày 13 đến 15 tháng Ba. Mỗi năm, mỗi giáp có một người gánh trưởng phải nuôi lợn thờ (nuôi trước một năm) để có đồ tế lễ. Mở đầu hội là lễ rước nước từ chùa Keo (làng Giao Tất) về làm lễ mộc dục. Ngày 14 nhập tịch, ngày 15 chính hội, tế lễ và rước cùng làng Đa Tiện. Trong hội có các trò chơi : đu quay, chọi gà, hát Quan họ, đặc biệt có khúc hát văn ca ngợi bà Lý Chiêu Hoàng.
PGS, TS. Bùi Xuân Đính