(HNMĐT)- Cầu Bây (làng Bây) là một làng nhỏ, nên từ xưa đến tháng 8 - 1945 luôn là một thôn của xã Cự Linh, tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh (từ năm 1831 trở về trước là trấn Kinh Bắc).
![]()
(HNMĐT)- Cầu Bây (làng Bây) là một làng nhỏ, nên từ xưa đến tháng 8 - 1945 luôn là một thôn của xã Cự Linh, tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh (từ năm 1831 trở về trước là trấn Kinh Bắc).
Trong kháng chiến chống Pháp, Cầu Bây nằm trong một xã lớn mang tên Cự Linh, huyện Gia Lâm, tỉnh Hưng Yên (từ năm 1949 lại cắt về tỉnh Bắc Ninh). Sau Cải cách ruộng đất (giữa năm 1956), xã Cự Linh được chia thành hai xã : Cự Khối và Thạch Bàn. Xã Thạch Bàn gồm các thôn (làng cũ) : Cầu Bây, Cự Linh và Cự Đồng. Tháng 5 - 1961, xã Thạch Bàn cùng các xã khác trong huyện Gia Lâm được chuyển về thành phố Hà Nội. Tháng 11- 2003, xã Thạch Bàn được chuyển thành phường, thuộc quận Long Biên mới được thành lập.
Cầu Bây nằm ven sông Cầu Bây, vốn là một nhánh của sông Nghĩa Trụ bắt nguồn từ Ô Cách, Lệ Mật (nay thuộc phường Việt Hưng, quận Long Biên) chảy qua các làng xã nay thuộc phường Gia Thụy, Thạch Bàn, nối với sông Đài Bi (là một chi lưu của sông Hồng, chảy qua các xã Đa Tốn, Kiêu Kỵ). Bên dòng sông, đoạn qua làng Cầu Bây có chiếc cầu đá (Thạch Cầu) 12 trụ cột, do một bà Thái phi họ Trịnh bỏ tiền xây dựng vào đầu thế kủ XVIII. Làng Cầu Bây vì thế còn gọi là làng Thạch Cầu. Tấm bia do Tiến sĩ Phạm Khiêm ích soạn năm Vĩnh Hựu thứ tư (1738) còn lưu khẳng định điều này.
Làng Cầu Bây thờ hai vị thần là Lã Nam Đường và Phương Dung công chúa. Theo lưu truuyền, xưa kia, có bà hoàng hậu và một công chúa đi lánh nạn đến làng Bây và làng Ngô ở bên cạnh. Hai mẹ con buôn bán qua ngày để kiếm sống. Một năm nọ, cả hai mẹ con không bệnh tật mà hóa. Mẹ hóa ở làng Ngô, con (Phương Dung công chúa) hóa ở làng Bây nên được hai làng thờ. ít lâu sau, có hai anh em ruột cùng là tướng của Đinh Tiên Hoàng đi đánh giặc (dân gian cho rằng, hai quê ông ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Hai anh em cùng vào miếu ở làng Bây cầu khấn, được hai mẹ con bà hoàng hậu hiện lên báo sẽ âm phù để phá được giặc. Quả đúng như vậy. Sau chiến thắng, hai anh em về miếu làng Bây và làng Ngô tạ ơn. Lễ xong, người anh (Lã Nam Đường) hóa ở làng Bây, người em hóa ở làng Ngô, nên hai anh em được hai làng thờ (làng Bây thờ người anh, làng Ngô thờ người em). Do vậy hai làng trước đây kết nghĩa với nhau.
Hội làng Cầu Bây diễn ra vào 10 tháng Hai, nhưng phải chuẩn bị lợn thờ từ ngày 10 tháng Chạp. Làng không có tục nuôi lợn thờ mà chỉ đi tìm mua lợn đực đen tuyền của các gia đình không có tang trở trong vùng. Mỗi giáp mỗi năm phải lo một con. Đến 25 tháng Chạp, các giáp đem lợn giao cho ông bầu (người đăng cai) nuôi trong một chuồng mới làm trước nhà, hàng ngày cho lợn ăn ba bữa bằng cháo gạo, tắm rửa cho lợn và cọ chuồng sạch sẽ, trong một tháng rưỡi. Đến 10 tháng Hai, các giáp đem lợn của mình từ nhà ông bầu ra đình, nhốt tại chuồng riêng. Đúng giờ Tý ngày 11, bốn lợn cùng được thả khỏi chuồng để trai đinh 4 giáp đuổi. Bị nhốt lâu ngày, được thả ra, các chú lợn được dịp chạ. Trai đinh bốn giáp thoả sức vây đuổi trong sự hò reo cổ vũ của dân làng. Cuối cùng thì các chú lợn bị bắt đem về giết thịt, đầu và đuôi làm thật sạch để sống, dâng lên tế thánh. Bốn người bắt được lợn của bốn giáp sau đó được ăn cùng mâm với tiên chỉ làng. Trò đuổi lợn diễn lại hình thức săn tập thể thuở xa xưa.
PGS, TS. Bùi Xuân Đính