(HNM) - Trong hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã được truyền cảm hứng và nuôi dưỡng khát vọng trường tồn dân tộc. Đó cũng chính là giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh hướng đến xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
1. Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX phản ánh tinh thần dân tộc của phe chủ chiến trong triều Nguyễn với thực dân Pháp là sự bế tắc của hệ tư tưởng phong kiến. Con đường cứu nước dựa vào nước ngoài của cụ Phan Bội Châu, hay sự canh tân đất nước theo mô hình tư sản Pháp do cụ Phan Châu Trinh tìm kiếm cũng đi vào ngõ cụt lịch sử. Trong bối cảnh Việt Nam chưa hình thành chế độ tư bản, mà chế độ phong kiến suy tàn lại chưa bị tiêu vong, để đưa dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của thực dân, phong kiến thì phải đi con đường nào cho đúng?
Câu hỏi mang tính thời đại lịch sử cho dân tộc luôn thao thức trong tâm can Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc. Bằng cuộc khảo cứu thực tiễn cách mạng khắp các châu lục, nhất là thâm nhập vào thế giới cần lao, bị áp bức bóc lột thậm tệ nhất đã giúp Người nhận thức được manh nha về quan điểm của quốc tế vô sản, rằng ở đâu người bị áp bức cũng thống khổ như nhau, còn kẻ thống trị cũng tàn bạo giống nhau. Bên cạnh việc khảo sát thực tế, Nguyễn Ái Quốc còn miệt mài tìm đọc các tác phẩm nổi tiếng liên quan đến tư tưởng chính trị mang tính tiên phong thời đại. Cũng nhờ lăn xả tham gia phong trào công nhân thế giới tại Pháp, trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, công nhận Quốc tế Cộng sản là tổ chức đại diện cho quyền lợi của giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới, là tổ chức quốc tế bênh vực quyền lợi cho các dân tộc bị áp bức; đặc biệt là Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã khai sáng cho Nguyễn Ái Quốc niềm tin tất thắng theo con đường cách mạng vô sản.
Nhờ có chủ nghĩa yêu nước chân chính, nhờ có lòng nhân ái, sự ham học, ham tìm hiểu có mục đích chính trị, nên Nguyễn Ái Quốc đã tích lũy được kiến thức, đủ tầm tư duy phát hiện ánh sáng chân lý thời đại trong Luận cương của Lênin. Tiếng reo của Nguyễn Ái Quốc trong đêm tối, tại căn phòng nhỏ hẹp ở Paris (Pháp) thực sự là tiếng súng phát lệnh khởi đầu con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam, trước hết cách mạng từ trong tư duy chính trị của Nguyễn Ái Quốc: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”.
2. Ngay sau khi tìm được chân lý thời đại, có niềm tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Trước khi chính thức về Tổ quốc (cuối tháng 1-1941), Nguyễn Ái Quốc đã tích cực chuẩn bị những tiền đề chính trị có ý nghĩa là điều kiện tiên quyết bảo đảm thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường vô sản ở Việt Nam, đó là thành lập chính đảng vô sản. Việc tổ chức các lớp tập huấn về lý luận chính trị tại Quảng Châu (Trung Quốc), ra Báo Thanh niên, phát hành cẩm nang lý luận chính trị Đường kách mệnh, chứng tỏ tầm tư duy sắc sảo của Người: Cách mạng vận động không ngừng, nuôi dưỡng khát vọng bằng nhận thức và hành động có cơ sở khoa học, kết hợp đúc rút thực tiễn với lý luận cách mạng. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Nguyễn Ái Quốc vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Khi các điều kiện thành lập Đảng chín muồi, trực tiếp Nguyễn Ái Quốc là người đảm nhiệm vai trò được Quốc tế Cộng sản giao đã tổ chức thành công việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành chính đảng vô sản ở Việt Nam. Các văn kiện đầu tiên của Đảng do Người khởi thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, thực sự là đường hướng đúng đắn, sáng suốt, duy nhất đúng cho cách mạng Việt Nam từ đó đến nay. Như vậy, con đường cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc tìm được là con đường giải phóng dân tộc đúng đắn nhất cho Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại, đồng thời cũng được Người chuẩn bị những điều kiện căn cốt nhất, bảo đảm chắc chắn cho mọi thắng lợi về sau.
Ngay sau khi về đến Tổ quốc, Hồ Chí Minh đã lập tức bắt tay vào việc chuẩn bị công tác tư tưởng, tuyên truyền, phổ biến đường lối cách mạng, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cho sát hợp với điều kiện cụ thể cách mạng trong nước và quốc tế. Người soạn cuốn Lịch sử nước ta, biên dịch cuốn Lịch sử Đảng Bônsêvích Nga, triệu tập Hội nghị Trung ương 8, thành lập Mặt trận Việt Minh, là những chuẩn bị cần kíp cho cách mạng đi tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền thành công. Với sự nhạy cảm chính trị, trên cơ sở phân tích kỹ lưỡng tình hình thế giới, nhất là khi Chiến tranh thế giới thứ hai diễn biến sang tính chất mới, với tính chính nghĩa của phe Đồng minh và Liên Xô, Hồ Chí Minh dự đoán thời cơ cách mạng một cách chuẩn xác. Trên cơ sở đó, Người rốt ráo chỉ đạo trong nước phải chủ động chuẩn bị điều kiện đón đợi thời cơ. Khi tình hình chuyển biến mau lẹ, dù đang ốm thập tử nhất sinh, Người đã thể hiện quyết tâm sắt đá: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Đặc biệt là, khi thời cơ ngàn năm có một xuất hiện, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, Hồ Chí Minh đã cấp tốc triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng, quyết định chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc; tiếp ngay sau đó, tổ chức Đại hội Quốc dân Tân Trào, đưa ra lời hiệu triệu Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Nghe theo lời hiệu triệu của Người, đồng bào ta đã kết đoàn, tạo thành sức mạnh toàn dân vùng lên đập tan xiềng xích nô lệ, mở ra thời cơ, vận hội mới cho dân tộc Việt Nam bước tiếp trong dòng chảy thời đại lịch sử hướng tới chủ nghĩa xã hội.
3. Trong lời kết của Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh khẳng định tinh thần bất diệt, khát vọng trường tồn dân tộc: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Dựa trên tiền đề Cách mạng tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập, sức mạnh Việt Nam được khai phóng và nhân lên gấp bội. Khi phải đối mặt với tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Hồ Chí Minh đã thổi luồng sinh khí mới vào lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường dân tộc của đồng bào ta, giúp cho chế độ mới đủ sức chiến thắng thù trong, giặc ngoài.
Khi buộc phải bước vào cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai, Hồ Chí Minh đã cất lên tiếng vọng non sông: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…”. Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là tất yếu của khát vọng trường tồn dân tộc, được truyền cảm hứng bởi Hồ Chí Minh.
Tiếp nối vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trước một kẻ thù đứng đầu phe đế quốc, có sức mạnh triệu lần so với tiềm lực kinh tế và phương tiện, vũ khí chiến tranh của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khơi dậy ý chí tự lực, tự cường dân tộc trong thời đại mới. Người nói: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”. Tinh thần bất tử của Hồ Chí Minh đã thắp sáng sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất non sông, khắc họa chân dung dân tộc Việt Nam “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Trước lúc đi xa, Người vẫn tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng, giang sơn sẽ thu về một mối: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Đây là khát vọng dân tộc trường tồn, tinh thần bất diệt, giá trị vĩnh hằng được hun đúc hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Dựa trên nền tảng tinh thần ấy, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã và đang nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.