Theo dõi Báo Hànộimới trên

Dự thảo Báo cáo Công tác nhiệm kỳ khóa XIV của Quốc hội

Theo Báo Nhân Dân| 25/03/2021 09:10

Tại kỳ họp thứ mười một, Quốc hội khóa XIV, ngày 24-3, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã trình bày dự thảo Báo cáo Công tác nhiệm kỳ khóa XIV của Quốc hội. Báo Hànộimới trân trọng giới thiệu toàn văn báo cáo:

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân trình bày Báo cáo Công tác nhiệm kỳ khóa XIV của Quốc hội, sáng 24-3. Ảnh: Trần Hải

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội, các vị khách quý,

Thưa đồng bào và cử tri cả nước,

Quốc hội khóa XIV được cử tri cả nước bầu ra vào ngày 22-5-2016. Trong 5 năm qua, Quốc hội triển khai hoạt động trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động, thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen; thế và lực của đất nước ngày càng lớn mạnh sau 35 năm đổi mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của cử tri, cùng với sự kế thừa và phát huy kinh nghiệm của các nhiệm kỳ trước, Quốc hội khóa XIV ngày càng thể hiện sâu sắc là hiện thân của khối đại đoàn kết dân tộc, tư duy sáng tạo, đổi mới mạnh mẽ, linh hoạt, thận trọng, quyết đoán, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hành động vì lợi ích của Nhân dân, của đất nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ trên các lĩnh vực lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng và đối ngoại; thể hiện rõ vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các quyết sách của Quốc hội luôn xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc, từ yêu cầu phát triển của đất nước, tạo nên những chuyển biến tích cực, mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Sau đây là những kết quả hoạt động chủ yếu của Quốc hội trong nhiệm kỳ khóa XIV:

1. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác lập pháp, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước, giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh của Tổ quốc, hội nhập quốc tế trong hòa bình, hữu nghị, hợp tác bình đẳng

Quốc hội khóa XIV đã tập trung ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời thể chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng và tiếp tục cụ thể hóa, đưa Hiến pháp năm 2013 vào đời sống, qua đó, khẳng định vai trò quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện thể chế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong nhiệm kỳ vừa qua, với 72 luật [1], hai pháp lệnh và nhiều nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật được thông qua đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân; thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền tự do kinh doanh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường; đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; cụ thể hóa và xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền công dân; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tội phạm và phòng, chống tham nhũng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền của đất nước; mở rộng quan hệ đối ngoại, tăng cường hội nhập quốc tế. Trong đó, có những đạo luật giữ vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật, những luật hoặc chính sách mới lần đầu tiên được ban hành, tác động lớn, toàn diện, sâu sắc đến đời sống kinh tế - xã hội, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn; nhiều nghị quyết về cơ chế, chính sách mang tính đột phá, thể hiện tính kịp thời, sự quyết liệt, tạo hành lang pháp lý về đổi mới tổ chức bộ máy, phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết vướng mắc, bất cập trong thực tiễn; nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, điều ước quốc tế quan trọng được phê chuẩn, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế phù hợp với lợi ích của quốc gia.

Quốc hội chú trọng việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật; đồng thời, triển khai nhiều đổi mới quan trọng về quy trình xây dựng luật, pháp lệnh như: Không ban hành Chương trình cả nhiệm kỳ, mà tập trung xây dựng Chương trình hằng năm; tách bạch quy trình xây dựng chính sách và quy trình soạn thảo; kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp được thể hiện bằng văn bản, làm cơ sở, định hướng để các cơ quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý hoặc báo cáo giải trình bổ sung trình Quốc hội xem xét, quyết định; các hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách được tăng cường, ngày càng đi vào nền nếp; các hình thức thảo luận, lấy ý kiến được đổi mới, đa dạng, bảo đảm đúng quy trình, có chất lượng, tiết kiệm thời gian,...

Tuy nhiên, hoạt động lập pháp cũng còn những hạn chế nhất định, như: Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh còn phải điều chỉnh nhiều; một số dự án, dự thảo được đưa vào chương trình nhưng chính sách chưa rõ, chưa đánh giá tác động sâu sắc, có chính sách mới được bổ sung nhưng chưa được đánh giá tác động; một số báo cáo thẩm tra còn có nội dung chưa thể hiện rõ quan điểm, chưa cung cấp đầy đủ luận cứ phục vụ việc xem xét, lựa chọn phương án đối với vấn đề còn có ý kiến khác nhau… Nguyên nhân có phần là do đất nước đang trong quá trình phát triển, tình hình thế giới, khu vực thay đổi nhanh, khó đoán định, dẫn đến việc chưa dự liệu đầy đủ, toàn diện. Một số cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm trong chuẩn bị dự án, dự thảo; chưa tuân thủ nghiêm quy định về thời hạn, nhất là việc gửi tài liệu đến các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Chưa có cơ chế phù hợp để thu hút hiệu quả ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách… 

2. Tăng cường hoạt động giám sát, không ngừng cải tiến, đổi mới cách thức thực hiện, tập trung vào những vấn đề bức xúc của cuộc sống

Công tác giám sát được chú trọng, nội dung giám sát có trọng tâm, trọng điểm, bao quát hầu hết các lĩnh vực, ngày càng nâng cao hiệu lực, hiệu quả, đạt được nhiều kết quả quan trọng, được cử tri và Nhân dân đánh giá cao. Thông qua hoạt động giám sát đã khẳng định tính đúng đắn của chính sách, pháp luật, tiếp tục phát huy những việc làm tốt, kịp thời phát hiện hạn chế, bất cập, kiến nghị bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật, làm cơ sở cho việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.

Việc xem xét báo cáo của các cơ quan được thực hiện hiệu quả, thảo luận kỹ lưỡng, có sự giám sát của cử tri, công khai, minh bạch, góp phần bảo đảm tổ chức và thực hiện đúng quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Giám sát chuyên đề tiếp tục đi vào chiều sâu, hiệu quả rõ nét với bảy chuyên đề liên quan mật thiết đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân; cách thức tiến hành được cải tiến, ngày càng bài bản, chuyên nghiệp.

Chất vấn và trả lời chất vấn tiếp tục có nhiều đổi mới, nhất là cách thức “hỏi nhanh, đáp gọn” đã tạo điều kiện để tăng cả về số đại biểu Quốc hội chất vấn, tranh luận, cả về nội dung và chất lượng câu hỏi, câu trả lời, tạo không khí sôi nổi, thu hút sự quan tâm đặc biệt của đại biểu Quốc hội, cử tri và nhân dân cả nước. Quốc hội đã hai lần tiến hành xem xét việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ, thể hiện thái độ, trách nhiệm của Quốc hội trong việc đi “đến cùng” vấn đề được giám sát. Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn được thực hiện nghiêm túc, góp phần tiếp tục phát huy dân chủ trong hoạt động của cơ quan dân cử cũng như trong đời sống xã hội. 

Hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội tiếp tục được đẩy mạnh, có nhiều chuyển biến rõ rệt, hiệu quả được nâng cao, nhất là trong việc giám sát chuyên đề, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và giải quyết kiến nghị của cử tri. Hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội và hoạt động giải trình tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban được tăng cường, có nhiều đổi mới, đã kịp thời xem xét, giải quyết những vấn đề “nóng”, đáp ứng yêu cầu của nhân dân và xã hội. Các Đoàn đại biểu Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội đã chú trọng hơn đến việc giám sát thực hiện chính sách, pháp luật, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội trên địa bàn.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động giám sát vẫn còn những hạn chế, như: Hiệu quả giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa cao, nhất là văn bản quy định chi tiết thi hành luật; một số nội dung chất vấn và trả lời chất vấn còn chưa tập trung vào vấn đề lớn liên quan đến thể chế, chính sách vĩ mô, trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ, ngành hoặc chưa đi vào trọng tâm, mới tập trung vào báo cáo thực trạng, chưa xác định rõ trách nhiệm cá nhân và giải pháp khắc phục; một số yêu cầu tại các nghị quyết về giám sát chuyên đề, chất vấn, báo cáo giám sát của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội chưa được triển khai nghiêm túc, việc theo dõi, đôn đốc thực hiện chưa thực sự quyết liệt... Nguyên nhân là do khối lượng công việc lớn, nhiều việc phát sinh, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động giám sát; một số nội dung có phạm vi rộng, tính chuyên sâu cao, trong khi thời gian, nguồn lực thực hiện còn hạn chế...

3. Xem xét, quyết định nhiều quyết sách quan trọng của đất nước, có tác động lớn đến đời sống kinh tế - xã hội, phát triển vùng miền núi đồng bào dân tộc, gắn với nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại

Quốc hội đề cao việc bảo đảm tính tổng thể, gắn kết chặt chẽ giữa yêu cầu nhiệm vụ với nguồn lực thực hiện khi xem xét, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm, kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, hệ thống kế hoạch trong lĩnh vực tài chính, ngân sách. Kế hoạch đầu tư công trung hạn và kế hoạch tài chính 5 năm giai đoạn 2016-2020 lần đầu tiên được thông qua, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, hướng tới việc huy động và sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn, bảo đảm an toàn nợ công, tính bền vững của ngân sách. Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới và trong nước diễn biến phức tạp, nhất là do ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, dịch bệnh trong năm 2020, nhiều quyết định đã được xem xét, ban hành kịp thời, nhiều chính sách được điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu tại từng thời điểm. Chính sách tiền tệ và tài khóa được xem xét thận trọng, linh hoạt, bảo đảm ứng phó kịp thời, góp phần hạn chế các tác động bất lợi, duy trì, phục hồi các hoạt động sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng, kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.

Quốc hội đã quyết định chủ trương đầu tư những dự án, công trình quan trọng quốc gia, có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020, các dự án thành phần của dự án xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành; quyết định dừng thực hiện chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Quốc hội cũng đã phê duyệt Đề án tổng thể và chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, là những quyết sách đặc biệt quan trọng, đồng bộ, toàn diện, thúc đẩy vùng đồng bào dân tộc thiểu số phát huy nội lực, phát triển bền vững, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc trong tình hình mới.

Công tác nhân sự được xem xét, tiến hành chặt chẽ, thận trọng, đúng quy trình, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và nhận được sự đồng thuận cao. Việc xem xét, quyết định thành lập, nhập, điều chỉnh địa giới và sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã góp phần triển khai có hiệu quả chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội về tinh gọn tổ chức bộ máy, phát huy tiềm năng, lợi thế, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Tuy vậy, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận việc quyết định các vấn đề quan trọng còn những hạn chế, như: Có vấn đề mang tầm vĩ mô vẫn chưa được thảo luận một cách thấu đáo; khó đánh giá, xác định trách nhiệm trong trường hợp không hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đề ra... Nguyên nhân là do một số nội dung chưa bảo đảm tiến độ về thời gian, gây khó khăn cho các cơ quan thẩm tra và đại biểu Quốc hội; chưa có quy định cụ thể về tiêu chí, nội dung thuộc nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chưa phân định các trường hợp được thực hiện điều chỉnh mục tiêu, chỉ tiêu trong một số tình huống khi tình hình kinh tế - xã hội có biến động lớn...

4. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội được triển khai hiệu quả, đóng góp quan trọng vào thành công chung của công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có chuyển biến nhanh chóng, phức tạp, vai trò của Quốc hội ngày càng được khẳng định thông qua việc quyết định và thực hiện các chính sách lớn về đối ngoại, giám sát việc thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên... Với nỗ lực rất lớn, nhiều điều ước quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng đã được kịp thời phê chuẩn. Trong đó, các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, EVIPA đã tạo đà cho sự phát triển mạnh mẽ, hội nhập nhanh, hiệu quả hơn của đất nước; các văn kiện liên quan đến biên giới đã góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng đường biên giới hoà bình, ổn định, đóng góp vào việc tăng cường đoàn kết, củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài giữa nước ta với các nước láng giềng Lào, Campuchia.

Quốc hội cũng đã thể hiện rõ nét hơn vai trò “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi”, bảo vệ và thúc đẩy hiệu quả các lợi ích chiến lược về an ninh, phát triển của Việt Nam; đồng thời, là “thành viên có trách nhiệm”, đóng góp nhiều sáng kiến quan trọng tại các diễn đàn liên nghị viện thế giới và khu vực, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy đối thoại và hợp tác. Điểm nhấn nổi bật là đã đăng cai tổ chức thành công Hội nghị thường niên lần thứ 26 của Diễn đàn nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF-26), Năm Chủ tịch AIPA 2020 và Đại hội đồng lần thứ 41 của Hội đồng liên Nghị viện các quốc gia ASEAN (AIPA 41); trong đó, Đại hội đồng AIPA-41 là Đại hội đồng đầu tiên trong lịch sử AIPA được tổ chức theo hình thức trực tuyến, thành công tốt đẹp, có nhiều sáng kiến được đánh giá cao, để lại ấn tượng sâu sắc đối với các nghị viện thành viên, nghị viện quan sát viên AIPA và bạn bè quốc tế. Với sự tín nhiệm cao, Quốc hội Việt Nam được bầu giữ cương vị Ủy viên Ban Chấp hành IPU (nhiệm kỳ 2016-2019), Phó Chủ tịch IPU (nhiệm kỳ 2018-2019) và giữ vai trò Chủ tịch APF Vùng châu Á - Thái Bình Dương theo cơ chế luân phiên (nhiệm kỳ 2019-2021).

Với tinh thần đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn mối quan hệ với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, các nước lớn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, Quốc hội đã thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với nghị viện các nước, đến nay, đã thiết lập được quan hệ nghị viện với gần 180 quốc gia có chủ quyền và là thành viên của nhiều tổ chức, diễn đàn liên nghị viện khu vực và thế giới. Hoạt động đối ngoại ngày càng đa dạng, phong phú, được triển khai ở tất cả các cấp độ và thông qua nhiều hình thức; chương trình đối ngoại được xây dựng trên cơ sở phát huy kết quả, kinh nghiệm của các khóa trước và xem xét bối cảnh tình hình thực tế; công tác điều hòa, phối hợp được tăng cường, ngày càng bảo đảm thiết thực, tiết kiệm, hiệu quả.

5. Mô hình tổ chức phù hợp, phương thức hoạt động không ngừng được đổi mới, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, giữ mối liên hệ chặt chẽ với cử tri, chú trọng mối quan hệ phối hợp công tác là những nhân tố quyết định hiệu quả, góp phần tạo nên những dấu ấn sâu sắc trong hoạt động của Quốc hội  

5.1. Mô hình tổ chức phù hợp đã phát huy tốt vai trò của từng cơ quan trong bộ máy của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn phát triển mới.

Đại biểu Quốc hội khóa XIV cơ bản bảo đảm yêu cầu về số lượng, tiêu chuẩn, chất lượng; thường xuyên gắn bó, nắm bắt ý kiến, kiến nghị của cử tri, tăng cường tiếp công dân; tích cực tham gia, thực sự trở thành trung tâm hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội. Tại các kỳ họp, các đại biểu Quốc hội đã thể hiện bản lĩnh, chính kiến, thẳng thắn, công tâm, cân nhắc thận trọng, phát huy cao trách nhiệm trước Tổ quốc, nhân dân trong thảo luận, quyết định chính sách, pháp luật, các chủ trương lớn về quốc kế dân sinh và những vấn đề trọng đại của đất nước. Hoạt động của đại biểu Quốc hội chuyên trách ngày càng được nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp, chuyên sâu, khẳng định rõ vai trò là lực lượng nòng cốt trong hoạt động của Quốc hội.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoàn thành xuất sắc vai trò cơ quan thường trực, giúp Quốc hội triển khai có hiệu quả công tác lập pháp, giám sát, quyết định vấn đề quan trọng của đất nước, đối ngoại. Có được kết quả đó là do Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã một mặt tiếp tục phát huy kinh nghiệm của các khóa trước, mặt khác chú trọng, tập trung đổi mới, cải tiến về phương thức hoạt động. Chủ tịch Quốc hội và các Phó Chủ tịch Quốc hội thường xuyên trao đổi, dành thời gian thỏa đáng làm việc với Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban, các bộ, ngành, địa phương để nắm rõ tình hình, kịp thời cho ý kiến chỉ đạo; cùng với Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo, điều hòa khoa học, hợp lý hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội cũng như giám sát, hướng dẫn có hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân các địa phương.

Với mô hình tổ chức có sự kế thừa, hoàn thiện hơn và phương thức hoạt động có nhiều đổi mới, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội luôn thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, huy động tối đa trí tuệ tập thể, tập trung nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động. Các báo cáo thẩm tra thể hiện rõ chính kiến, mang tính phản biện sâu sắc, có cơ sở khoa học và thực tiễn, đề xuất được nhiều phương án xử lý phù hợp. Hoạt động giám sát, khảo sát, giải trình được đẩy mạnh, tập trung vào những vấn đề mà cử tri, dư luận xã hội quan tâm.

Các Đoàn đại biểu Quốc hội đã chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động phù hợp, thực hiện tốt công tác phối hợp tham gia xây dựng pháp luật, giám sát, tổ chức tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Vai trò của Trưởng đoàn, Phó Trưởng đoàn hoạt động chuyên trách được đề cao để cùng với tập thể Đoàn hoàn thành tốt nhiệm vụ.   

Bộ máy tham mưu, giúp việc về cơ bản được tổ chức hợp lý, khoa học, có sự phân công, phân nhiệm cụ thể, rõ ràng, có sự liên thông, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các bộ phận, bảo đảm tinh gọn, không chồng chéo và tận dụng được tối đa nguồn lực. Chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu, phục vụ, tính chủ động, sáng tạo, chuyên nghiệp và chuyên môn hóa được nâng cao. Tổng Thư ký Quốc hội và Văn phòng Quốc hội đã triển khai nhiệm vụ theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đặt ra; trong đó, đã chú trọng tham mưu, phục vụ nhiều cải tiến, đổi mới quan trọng về quy trình, thủ tục, thông tin, tuyên truyền, ứng dụng công nghệ thông tin... Các Ban, Viện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội có nhiều đổi mới về phương thức hoạt động, đạt được kết quả khá toàn diện trong công tác tham mưu, phục vụ về tổ chức bộ máy, nhân sự, công tác dân nguyện, nghiên cứu khoa học lập pháp...

Các điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc, điều kiện bảo đảm hoạt động của Quốc hội, đại biểu Quốc hội được thực hiện đầy đủ, tiết kiệm, hợp lý, hiệu quả.

5.2. Phương thức hoạt động của Quốc hội luôn được đổi mới, hoàn thiện, thích ứng, linh hoạt trước những vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là vào thời điểm đại dịch Covid-19 ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ. Đã có nhiều cải tiến mạnh mẽ từ cách thức tổ chức đến tiến hành các kỳ họp Quốc hội, phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng như hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Quốc hội có bước tiến đột phá (nhất là kỳ họp thứ 9, thứ 10 đã được tổ chức kết hợp họp trực tuyến và họp tập trung), kịp thời thích ứng với xu thế phát triển của thời đại, tạo tiền đề quan trọng để tiếp tục xây dựng, phát triển Quốc hội điện tử trong thời gian tới.

Các kỳ họp đã diễn ra dân chủ, công khai, có nhiều cải tiến, chất lượng, hiệu quả được nâng lên, để lại nhiều dấu ấn quan trọng. Kỳ họp Quốc hội không chỉ là nơi các đạo luật, quyết sách quan trọng được xem xét kịp thời, thảo luận kỹ lưỡng, quyết định thận trọng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và nguyện vọng của Nhân dân, mà còn là nơi phản chiếu đầy đủ, sát thực, rõ nét đời sống chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước và là nơi hội tụ, lan tỏa tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hành động vì lợi ích của Nhân dân, quốc gia, dân tộc... là những minh chứng rõ nét, được đại biểu Quốc hội, cử tri, dư luận xã hội và bạn bè quốc tế đánh giá cao.

5.3. Trong mọi mặt hoạt động, Quốc hội khoá XIV luôn quán triệt sâu sắc, thể chế hoá kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho sự phát triển bền vững của đất nước; đồng thời, chủ động đóng góp ý kiến, kiến nghị tâm huyết, thẳng thắn, toàn diện với Đảng về nhiều vấn đề quan trọng. Qua đó, đã nâng cao uy tín của Quốc hội trong hệ thống chính trị cũng như đối với cử tri, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.

5.4. Nhận thức sâu sắc mối liên hệ mật thiết với cử tri, Nhân dân vừa là yêu cầu, nhiệm vụ, vừa là mục tiêu, mục đích cao nhất cần hướng tới, Quốc hội đã luôn coi trọng, đẩy mạnh, đổi mới các hoạt động, hình thức, cách thức, biện pháp để mối liên hệ giữa cử tri và đại biểu ngày càng được khăng khít hơn, phù hợp với tình hình thực tiễn. Hoạt động tiếp xúc cử tri được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc, trách nhiệm cao, linh hoạt, dưới nhiều hình thức (như: Định kỳ, chuyên đề, trực tuyến,…); có sự đổi mới về cách thức thực hiện, thu hút sự tham dự đông đảo của cử tri cũng như thu thập được nhiều ý kiến, kiến nghị từ cơ sở. Ý kiến, kiến nghị của cử tri được tập hợp, tổng hợp kịp thời và được chuyển tới các cơ quan có trách nhiệm giải quyết. Việc theo dõi, đôn đốc, giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri được tiến hành chặt chẽ, thường xuyên.

Công tác tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư của công dân, theo dõi, đôn đốc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đã có nhiều cố gắng và chuyển biến tích cực. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội đã nỗ lực, từng bước nâng cao chất lượng công tác dân nguyện, góp phần thúc đẩy giải quyết hiệu quả khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân.

5.5. Mối quan hệ phối hợp công tác giữa các cơ quan của Quốc hội với Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức hữu quan được chú trọng, tăng cường, bảo đảm toàn diện, chủ động, hiệu quả, có chiều sâu. Những đổi mới trong cách thức phối hợp đã góp phần thúc đẩy, nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan, nhằm hướng tới mục tiêu chung là phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân.

6. Từ thực tiễn hoạt động 5 năm qua, Quốc hội khóa XIV đã khẳng định, bổ sung, làm sâu sắc thêm những bài học kinh nghiệm quý được Quốc hội các khóa rút ra như sau:

Một là, quán triệt sâu sắc, thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, vì lợi ích của đất nước, của Nhân dân là nhân tố quyết định để Quốc hội hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Quốc hội là cơ sở quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, tạo không khí dân chủ và phát huy trí tuệ của các đại biểu Quốc hội.

Hai là, kế thừa, phát huy các thành tựu, bài học kinh nghiệm của hơn 70 năm Quốc hội Việt Nam, Quốc hội khóa XIV tiếp tục nêu cao tinh thần đoàn kết, tăng cường dân chủ, công khai, minh bạch, cải tiến, đổi mới phương thức hoạt động để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Sự đoàn kết, đổi mới, trí tuệ, trách nhiệm và phát huy dân chủ là yêu cầu thường xuyên, liên tục, là động lực quan trọng tạo nên sức mạnh, sự năng động, sáng tạo để đáp ứng tốt nhất yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn đặt ra. Ủy ban Thường vụ Quốc hội phát huy tốt vai trò là cơ quan thường trực của Quốc hội. Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban ngày càng nâng cao chất lượng công tác thẩm tra, giám sát và kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi phụ trách, thực sự trở thành chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đại biểu Quốc hội. Hoạt động của các Đoàn đại biểu Quốc hội góp phần quan trọng vào các kết quả hoạt động của Quốc hội, phát huy vai trò của đại biểu Quốc hội và là cầu nối giữa Quốc hội và địa phương.

Ba là, quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, gần dân, hiểu dân, trọng dân; lắng nghe nhân dân, phục vụ nhân dân là yêu cầu hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội nhằm hoàn thành trọng trách mà nhân dân ủy thác; chú trọng việc nghiên cứu tiếp thu những ý kiến đóng góp quý báu của cử tri và Nhân dân nhằm tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của mình. Sự ủng hộ, tin tưởng của cử tri và Nhân dân vừa là động lực, vừa là nguồn động viên to lớn để Quốc hội, đại biểu Quốc hội nỗ lực hơn nữa, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Bốn là, đại biểu Quốc hội giữ vai trò trung tâm, là nhân tố then chốt quyết định chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Việc tăng số lượng đại biểu chuyên trách, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn của đại biểu đã góp phần quan trọng, thiết thực trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội nhận thức rõ vinh dự và nêu cao tinh thần trách nhiệm trước cử tri, không ngừng phấn đấu, rèn luyện, thể hiện được bản lĩnh, năng lực, trí tuệ, tâm huyết, khát khao cống hiến; là cầu nối quan trọng giữa Quốc hội và cử tri thông qua việc lắng nghe, phản ánh trung thực ý chí, nguyện vọng của Nhân dân vào nghị trường cũng như tuyên truyền, đưa chính sách và quy định của pháp luật vào cuộc sống.

Năm là, coi trọng, phát huy thế mạnh đặc thù hoạt động đối ngoại của Quốc hội trong tổng thể hoạt động đối ngoại chung của Đảng, Nhà nước, chủ động, phối hợp chặt chẽ với đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, cùng hướng tới thúc đẩy tiến trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao uy tín của Quốc hội và vị thế của đất nước trên trường quốc tế; tiếp thu các kinh nghiệm tốt trong tổ chức và hoạt động của Nghị viện các nước trên thế giới nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.

Sáu là, mối quan hệ phối hợp công tác giữa các cơ quan của Quốc hội với các cơ quan, tổ chức hữu quan được coi trọng, tăng cường, tạo sự chủ động, thống nhất, kịp thời trong triển khai công việc, đạt chất lượng, hiệu quả cao, góp phần giúp Quốc hội hoàn thành tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Hiện đại hóa phương thức hoạt động, khai thác, ứng dụng tối đa công nghệ thông tin, từng bước hình thành các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu để đổi mới phương pháp, cải thiện tiến độ, chất lượng và hiệu quả các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội; hướng tới xây dựng Quốc hội điện tử. Tổ chức, hoạt động của bộ máy tham mưu, giúp việc chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại, bảo đảm sự ổn định là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng công tác tham mưu tổng hợp, phục vụ hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.  

Kính thưa Quốc hội,

Nhìn lại chặng đường 5 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào, Quốc hội vẫn luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, nỗ lực, cố gắng cao nhất để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV đã thành công với những kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực từ lập pháp, giám sát, quyết định vấn đề quan trọng của đất nước đến ngoại giao nghị viện đã góp phần đưa đất nước vững bước vượt qua khó khăn, tạo ra những chuyển biến tích cực, mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, đóng góp lớn vào những thành tựu vô cùng ý nghĩa của công cuộc gần 35 năm đổi mới, làm giàu thêm truyền thống 75 năm vẻ vang của Quốc hội. Mỗi đại biểu Quốc hội có quyền tự hào về những thành tựu đó cũng như những nỗ lực, cống hiến không ngừng nghỉ của mình. Thành quả và niềm vinh dự lớn nhất đối với đại biểu Quốc hội chúng ta chính là sự ghi nhận, tin tưởng, chia sẻ, ủng hộ, đồng hành xuyên suốt của cử tri, nhân dân trong mọi hoạt động của Quốc hội thời gian qua.

Nhân dịp này, thay mặt Quốc hội, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến toàn thể đồng bào và cử tri cả nước đã luôn tin tưởng trao cho chúng tôi trọng trách của người đại biểu Nhân dân; sự phối hợp, cộng đồng trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các cơ quan, tổ chức hữu quan cũng như sự hợp tác, giúp đỡ của bạn bè quốc tế và sự tận tâm, cống hiến hết mình của bộ máy tham mưu, giúp việc.

Tôi tin tưởng rằng, những thành tựu cùng với truyền thống quý báu của 75 năm Quốc hội sẽ tạo nền tảng quan trọng, vững chắc để Quốc hội khóa XV và Quốc hội các khóa tiếp theo tiếp tục kế thừa, phát huy, không ngừng lớn mạnh, có nhiều đổi mới, thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; xứng đáng là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Xin trân trọng cảm ơn!


[1] Chưa bao gồm một luật trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ mười một.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Dự thảo Báo cáo Công tác nhiệm kỳ khóa XIV của Quốc hội

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.