(HNMO) - Mùa xuân năm 1975, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đập tan chính quyền, quân đội Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chiến công vĩ đại ấy đã để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học quý báu, trong đó có bài học về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc suốt chiều dài cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước ngày nay.
1. Sau Hiệp định Giơnevơ (năm 1954), đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược, âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, một căn cứ quân sự phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình trong nước, bối cảnh khu vực và quốc tế có liên quan, Trung ương Đảng đã đề ra đường lối chung cho cách mạng Việt Nam: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới” (Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tháng 9-1960).
Trên cơ sở đường lối đúng đắn, Đảng đề ra phương thức tập hợp quần chúng rất sáng tạo, đó là thành lập các mặt trận dân tộc thống nhất riêng phù hợp với đặc điểm, điều kiện ở từng miền, lấy liên minh giai cấp công - nông làm nền tảng. Từ các hình thức mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng tổ chức xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện bằng sự kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị; tiến hành đánh địch bằng ba mũi tiến công quân sự, chính trị và binh vận; vừa kháng chiến vừa kiến quốc; vừa đánh giặc vừa từng bước xây dựng chế độ mới...
Đồng thời, thông qua đó, nhiều phong trào thi đua yêu nước diễn ra sôi nổi rộng khắp. Điển hình như các phong trào: “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, thanh niên “Ba sẵn sàng”, phụ nữ “Ba đảm đang”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”...
Sức mạnh đấu tranh được nhân lên gấp bội. Quân, dân Việt Nam lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của kẻ thù, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris (27-1-1973) công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân viễn chinh về nước, mở ra bước ngoặt mới cho sự nghiệp kháng chiến.
Đến cuối năm 1974, đầu năm 1975, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Thực hiện quyết tâm Bộ Chính trị đề ra, cả dân tộc “ra quân” trong mùa xuân 1975 lịch sử. Chỉ tính riêng 3 tháng đầu năm 1975, miền Bắc đã dốc sức đưa vào miền Nam gần 12 vạn cán bộ, chiến sĩ; chi viện 230 nghìn tấn vật chất các loại. Được sự chi viện to lớn từ miền Bắc, trên khắp chiến trường miền Nam, quân dân ta ra sức chuẩn bị các mặt cho trận đánh lớn quyết định cuối cùng.
Ngày 4-3-1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân ta bắt đầu, diễn ra với ba đòn tiến công chiến lược lớn: Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4-3 đến 3-4), đòn tiến công giải phóng Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21 đến 29-3) và Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 đến 30-4). Ngày 30-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời kết thúc vẻ vang chặng đường 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc kể từ Cách mạng tháng Tám năm 1945.
2. 46 năm đã trôi qua kể từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối. Song, bài học về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn vẹn nguyên giá trị.
Trong bối cảnh ấy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn là một quan điểm, chủ trương lớn cần được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực củng cố, tăng cường nhằm hướng đến mục tiêu xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương…
Để đạt mục tiêu đề ra, cần thực hiện tốt đồng bộ một số giải pháp cơ bản: Thực hiện tốt chính sách xã hội, tạo điều kiện cho mọi giai cấp, tầng lớp xã hội phát triển vững mạnh; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với phòng, chống tham nhũng, lãng phí; phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giải quyết tốt các mối quan hệ, thu hẹp những khác biệt giữa các bộ phận xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bài học đại đoàn kết toàn dân tộc có nhiều nội dung, chiều cạnh phong phú, đa dạng. Nhưng cốt lõi và chiều sâu của bài học lịch sử này là sự kiên định, sáng tạo trong thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi đây chính là nhu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ bao trùm, xuyên suốt, nhất quán có tính sống còn của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, cần kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, trong đó sức mạnh dân tộc - sức mạnh nội lực vẫn phải là chủ yếu.
Thực tế cho thấy, đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ có thể được phát huy, tăng cường mạnh mẽ khi được tổ chức và lãnh đạo một cách đúng đắn, bài bản, khoa học bởi một Đảng trong sạch, vững mạnh, gương mẫu thực hành dân chủ và luôn biết giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ.
Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị hành động vì dân, vì nước, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì sẽ quy tụ được lòng dân, phát huy được nguồn lực, sức mạnh và tiềm năng sáng tạo vĩ đại của toàn dân tộc để sẵn sàng đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thử thách, kể cả những thử thách ngặt nghèo như đại dịch Covid-19 hiện nay. Niềm tin ấy được nhân lên hơn bao giờ hết, nhất là khi cả nước ta đang đẩy mạnh việc đưa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng vào cuộc sống.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.