(HNM) - Có lẽ những chiếc xích lô đầu tiên du nhập vào Việt Nam vào khoảng đầu những năm năm mươi thế kỷ trước, ở Hà Nội tạm chiếm. Dần dà, nó thay cho những chiếc xe tay người kéo, loại mà nhà văn Nguyễn Công Hoan đã kể trong truyện ngắn nổi tiếng “Ngựa người, Người ngựa”.
Kết cấu chiếc xích lô khá hợp lý. Xe ba bánh, “thùng” phía trước đặt trên hai bánh, có ghế lò xo cho khách ngồi, sàn nhỏ hơi cong để chân, gắn gọng (khung) đỡ mui bạt che mưa nắng có thể giương lên cụp xuống. Phía sau là bánh xe thứ ba, trên là yên để người phu xe ngồi đạp, dẫn xe đi... Xích lô là một từ từ tiếng Pháp, được Việt hóa, sau gọi vui, chệch thành “xế lô”. Cũng có người “chơi sang”, kiếm ăn bằng xích lô máy.
Một thời, đây là phương tiện chở người, chở hàng được ưa chuộng, trước khi xe đạp thành thông dụng, dĩ nhiên là trướcnhững chiếc xe máy tràn ngập đường phố hôm nay. Gọn gàng, tiện dụng, nó chở những áo dài tha thướt đi dạo phố. Thế mà có lúc đảm nhiệm cả việc dọn nhà, bên trên cồng kềnh cả giường gỗ, tủ chè, bàn ghế, với nhữngnhịpnhấn gắng gỏi của người đạp. Ban đêm hoặc mờ sáng, lúc đường phố thưa vắng, xích lô còn chở những bó thép xây dựng dài thườn thượt, vắt từ đằng trước ra mãi phía sau, lừ lừ theo luồng đường mà tiến.
Đừng tưởng đạp xích lô ngon ăn, nhàn nhã đâu nhé. Đường nhựa Hà Nội khoảng mười giờ sáng trở đi đã nóng nực. Ánh nắng tháng năm tháng bảy gay gắt lạ thường. Dù là lốp cao su, dù có xích và giảm sóc dưới yên nhưng phơi mình trong nắng đạp cho được một cuốc xe, cho là chỉ chở một bà khách sang trọng đi, cả quần lẫn áo người phu cũng đẫm mồ hôi rồi. Nhìn từng giọt mặn từ trán tuôn xuống thấm vào mắt cay xè, mới thấm thía nỗi cơ cực của phận nghèo, phải chọn cái nghề bán sức mà sinh sống.
Xích lô vốn mải miết một mình, đậu chờ khách ở bến xe, cửa ga, khu chợ đông người. Dù chiếc xe đã văn minh gấp bao lần chiếc xe kéo tay, nó vẫn mang theo một cuộc đời lam lũ. Xe mới còn đỡ, nhưng chạy lâu cái nào thùng cũng sơn tróc, bạc phếch, mui bạt xiêu vẹo dệch dạc như ông chủ đằng sau. Đi từ mờ đất, trở về lúc nửa đêm, nó được khóa lại nghỉ ngơi trong những xóm nghèo ngoài bãi, hoặc xóm liều.
Thời kinh tế thị trường, ô tô, xe máy nhan nhản đáp ứng nhu cầu đi lại, nhu cầu đô thị hóa. Phương tiện vận tải công cộng đã có taxi, xe tải nhỏ, số đông đáp xe buýt... Xích lô thưa dần ở trung tâm, dạt ra phố ngoại ô. Không biết ai đó có sáng kiến dùng xích lô để phục vụ du lịch, lễ lạt... Khách từ khắp các phương trời xa đáp xích lô của hãng du lịch vòng quanh hồ Gươm, qua phố cổ rồi ngược lên hồ Tây theo một hành trình ấn định. Xe mạ kền bóng loáng, sơn xanh đỏ lịch thiệp, mui đẹp rủ tua vàng. Người phương tây rất thích du ngoạn Hà Nội bằng phương tiện này, bởi họ có dịp đi chầm chậm nhìn ngắm nhà cửa, ngõ phố, hàng phở, bún chả, cửa hàng cửa hiệu san sát. Cây xanh với đủ mùa hoa cũng là một đặc sản cho con mắt, mùa xuân có hoa sưa trắng, hè là phượng đỏ ve ran, lên mạn Ba Đình còn được thưởng cả vườn đào chen hồng. Thấy ưng ý thứ gì, khách có thể bảo dừng, tạt vào mua sắm chốc lát hay nháy một kiểu ảnh, quay một cảnh độc đáo ngã ba ngã tư nào đó. Du lịch Hà Nội không thể thiếu “tiết mục” dạo xích lô!
Lại khi mùa cưới đến nhiều nhà dẫn lễ ăn hỏi thường dùng xích lô đem lễ vật đến nhà gái, quả là “xứng kỳ đức” với người Tràng An. Một đoàn dẫn lễ vấn danh “ngự” trên vài chục chiếc giương gọng vàng chóe. Những ông Tơ hồng, bà Nguyệt lão, với kiểu cách Tràng An đích thực, trong lối ăn vận âu phục hoặc nam phục, trong lời ăn tiếng nói thưa gửi, đi một hàng dài theo con phố khiến “phong cảnh” như sinh động, sang trọng hẳn lên. Người đạp xe, cũng ăn vận chững chạc như ai, khoan thai chở đoàn sứ giả đi lo chuyện hạnh phúc trăm năm cho một đôi trai tài gái sắc nào đó. Mà chỉ có Hà Nội - cảnh, Hà Nội - phố mới tôn vinh được cái kiểu phong tục rất đặc sắc, có duyên này!
Tôi đã từng là bạn rượu với một bác xích lô. Trong quán nhỏ, ngõ hẹp, bác có dáng vẻ một hảo hán xưa. Râu hùm hàm én, vai rộng, cử chỉ khoáng đạt, bác có cách vuốt râu lúc say không thể nào quên được. Thường ghé quán lúc non trưa, gọi đĩa đậu rán có rau thơm, đĩa bún, và tất nhiên phải có gói lạc rang chính hiệu sẵn trong lòng tay, bác ngồi đó với cút cuốc lủi, lặng lẽ nhấm nháp, nhìn thực khách ra vào. Chỗ ngồi riêng, nhà hàng đã dành sẵn trong góc, vắng thì một mình, lúc đông thì bà chủ cũng chỉ xếp đôi là cùng. Nhắm rượu, đánh hết đĩa bún đầy hơn của người khác một chút, tiếp vài câu bâng quơ với người cùng bàn, với nhà chủ, bác trả tiền rồi dong xe đi. Ai để ý đi theo sẽ thấy lão tướng đạp đến con phố rợp bóng cây, gần công viên, ghếch xe lên hè rồi ngồi lên, lấy cái mũ vải mềm ra che mặt mà ngủ.
Tung tích của bác, vì nể trọng, nên tôi không nỡ hỏi. Bởi có tuổi như bác mà phải theo nghề này thì chuyện đời hẳn cũng nhiều nỗi lắm... Nghe đâu con cái không, từng một thời chiến trận, người vợ gắn bó một đời đã mất, bác đành gắn bó với chiếc xe, kiếm đủ để có chén rượu qua ngày, qua trưa như thế. Rồi tối đến, về ngôi nhà tồi tàn trong một ngách phố, có lẽ khó bề sang trọng được. Ấy cứ kể về chiếc xích lô thì ngắn ngủi vậy, nhưng tính sang những mảnh đời, những con người đã ngự lên đó đằng trước, đã gò lưng đạp đằng sau thì lại rất là dài...
Ngô Văn Phú
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.