(HNM) - Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, việc xây dựng lực lượng vũ trang của Thủ đô Hà Nội, trong đó có công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho lực lượng tự vệ, được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng. Nhằm nâng cao trình độ chính trị, quân sự và năng lực chỉ huy của cán bộ tự vệ, Trường Huấn luyện cán bộ tự vệ mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra đời, chuẩn bị cho lực lượng vũ trang Hà Nội bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược.
1. Sau ngày 2-9-1945, ngoài lực lượng bộ đội chủ lực quốc gia được phiên chế thành các tiểu đoàn Vệ quốc đoàn đóng trên các vị trí trọng yếu, lực lượng vũ trang địa phương của thành phố Hà Nội có hai tổ chức chính: Tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu và Tự vệ Thành Hoàng Diệu (gọi tắt là Tự vệ Thành) do Thành ủy Hà Nội trực tiếp lãnh đạo.
Tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu ra đời ngày 26-8-1945, có trụ sở tại 107 Trần Hưng Đạo. Chỉ từ tháng 8 đến tháng 12-1945, Tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu đã phát triển nhanh chóng với khoảng 700 cán bộ, chiến sĩ, biên chế thành 5 chi đội mang tên: Tô Hiệu, Trần Quốc Toản, Hà Huy Tập, Ký Con và Trung đội nữ Minh Khai. Đồng chí Lê Trung Toản, Thành ủy viên, trực tiếp phụ trách Tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu. Cán bộ, chiến sĩ sinh hoạt và công tác, huấn luyện theo chế độ tập trung như các đơn vị của lực lượng bộ đội địa phương sau này.
Tự vệ Thành do đồng chí Khuất Duy Tiến, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố phụ trách, là lực lượng tự vệ rộng rãi ở các khu phố. Vài phố giáp nhau, tự vệ tổ chức thành một trung đội hoặc một đại đội. Cán bộ chỉ huy do đội viên bầu lên. Theo hồi ký của đồng chí Lê Trung Toản: “Cán bộ đại đội thường là viên chức, học sinh, sinh viên. Cán bộ trung đội, tiểu đội thường là nhân dân lao động”. Vũ khí cũng do đội viên tự trang bị, chủ yếu là các loại súng mua lại của quân Tưởng hoặc lấy được sau ngày Nhật đảo chính Pháp, tháng 3-1945. Tự vệ Thành có nhiệm vụ giữ an ninh trật tự khu phố, bảo vệ nhân dân và tuyên truyền các chủ trương của Thành bộ Việt Minh. Sau đó, để thống nhất lực lượng Tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu và Tự vệ Thành, tháng 9-1945, tại trụ sở Ủy ban Hành chính thành phố, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì hội nghị họp bàn việc thống nhất các lực lượng tự vệ, trước hết về mặt tổ chức chỉ huy…
Để nâng cao trình độ chính trị, quân sự và năng lực chỉ huy của Tự vệ Thành, Trung ương Đảng chỉ đạo thành phố Hà Nội tổ chức Trường Huấn luyện cán bộ tự vệ. Trường được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp lúc đó là Bộ trưởng Bộ Nội vụ làm Giám đốc danh dự của trường.
2. Ngày 7-1-1946, 75 cán bộ, chiến sĩ xuất sắc nhất của Tự vệ Thành được chọn đi học khóa đầu tiên, khai giảng tại Trường Kỹ nghệ thực hành (nay là số 2F phố Quang Trung). Chủ tịch Hồ Chí Minh tới dự lễ khai giảng và nói chuyện với học viên, nêu rõ nhiệm vụ của tự vệ trong tình thế thù trong, giặc ngoài đang câu kết hòng lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân. Người nhấn mạnh: “Các đồng chí đến đây theo lớp huấn luyện là học tập cách trị an về vật chất và tinh thần. Các đồng chí phải học tập thành cán bộ để đi trước sự bảo vệ: Bảo vệ nền độc lập tự do của mình; không những thế, các đồng chí còn phải chỉ huy những anh em đi sau. Tóm lại, không những phải học cho biết kỹ thuật mà còn phải học lý luận, học về đạo đức, tinh thần nữa”.
Sau khóa 1, trường còn mở được 3 khóa huấn luyện nữa, mỗi khóa có khoảng 40-50 học viên, học trong hơn một tháng. Môn học quân sự chủ yếu do các đồng chí Vương Thừa Vũ, Hoàng Văn Thái ở Bộ Tổng Tham mưu, Đỗ Đức Kiên ở Thành bộ Việt Minh và cán bộ chỉ huy của Vệ quốc đoàn giảng. Tài liệu giảng dạy dựa vào kiến thức nghiên cứu từ sách quân sự của Pháp, Nhật, Trung Quốc và kinh nghiệm chiến đấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận, Khuất Duy Tiến giảng về chính trị và văn hóa. Bác sĩ Trần Duy Hưng giảng về cứu thương. Cán bộ tự vệ còn được Bác gọi đến Bắc Bộ Phủ để huấn thị về việc chuẩn bị lực lượng, tỉnh táo và có bản lĩnh nhận rõ tình thế, sẵn sàng kháng chiến.
Tuy các khóa huấn luyện mới chỉ đào tạo được khoảng 200 cán bộ tự vệ nhưng đó là đội ngũ cốt cán để đến mùa đông năm 1946, tự vệ của ba liên khu phố Hà Nội có cán bộ vững vàng, chỉ huy lực lượng giữ từng góc đường, dãy phố, giam chân địch suốt 60 ngày đêm (cuối năm 1946, đầu năm 1947), giúp các cơ quan Trung ương kịp thời rời lên chiến khu an toàn. Chiến công đó có đóng góp không nhỏ của các đồng chí từng tham gia các khóa học tại Trường Huấn luyện cán bộ tự vệ. Cùng với các lực lượng, họ đã hoàn thành nhiệm vụ, được Trung ương Đảng, Bác Hồ đánh giá cao.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.