(HNM) - Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), lần đầu tiên nước ta cam kết sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính để đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Thực hiện mục tiêu trên, Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Phóng viên Báo Hànộimới đã có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà về vấn đề này.
Bảo vệ môi trường là yếu tố tiên quyết cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững
- Hiện vấn đề môi trường đang là tâm điểm của các chương trình nghị sự phát triển toàn cầu và của đất nước ta hiện nay. Bộ trưởng có nhận xét, đánh giá gì?
- Thiên tai và biến đổi khí hậu đã trở thành tình trạng khẩn cấp của nhiều quốc gia trên phạm vi toàn cầu. Tại Việt Nam, vấn đề môi trường, khí hậu được đặt ở vị trí ưu tiên cao nhất trong chương trình nghị sự, kế hoạch phát triển của đất nước, với mục tiêu bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường. 2021 là năm đánh dấu bước chuyển mới với hệ thống pháp luật được xây dựng đồng bộ, các chỉ tiêu về môi trường hoàn thành vượt mục tiêu, cụ thể: Bài toán về rác thải đã có lời giải, với các dự án đã, đang triển khai sẽ xử lý 30% rác thải sinh hoạt theo hình thức đốt rác phát điện, đạt 157MW; kinh tế tuần hoàn bước đầu đã được phát triển; công nghiệp tái chế, xử lý rác thải, nước thải tăng 3%...
Nỗ lực của ngành Tài nguyên và Môi trường đã được đánh giá, ghi nhận cao qua chỉ số hài lòng từ phía người dân. Năm 2021, các bản tin dự báo thời tiết hằng ngày kịp thời phục vụ sản xuất, kinh doanh, phòng, chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Qua đó, thiệt hại về người giảm 54%, thiệt hại về tài sản giảm 78% so với trung bình 10 năm qua. Tỷ lệ người dân quan ngại về môi trường giảm từ 8,85% năm 2019 xuống còn 4,03%; các chỉ số về bảo vệ môi trường đã góp phần quan trọng đưa chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam ở vị trí 51/165 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng 37 bậc so với năm 2016 (vị trí 88)…
- Bảo vệ môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm, tiên quyết cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu. Bộ trưởng có thể cho biết vấn đề này được thể hiện cụ thể ra sao trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020?
- Điều 4 (nguyên tắc bảo vệ môi trường) Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định bảo vệ môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm, tiên quyết cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững; bảo vệ môi trường phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội.
Về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, luật có nhiều nội dung chế định mối quan hệ này, như quy định về đánh giá tác động môi trường, cấp giấy phép môi trường… phải thực hiện theo nguyên tắc phát triển bền vững gắn với việc duy trì các yếu tố tự nhiên, văn hóa, lịch sử, không gian xanh, cảnh quan môi trường; quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc giảm thiểu, phân loại chất thải… nhằm góp phần đạt mục tiêu phát triển bền vững.
Việt Nam cũng đã luật hóa nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành các nghị định có nội dung về bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone cũng như các quy định về biện pháp hành chính có liên quan. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã ban hành thông tư hướng dẫn chi tiết về ứng phó với biến đổi khí hậu.
Quyết liệt triển khai đồng bộ nhiều giải pháp
- Tại COP26, Việt Nam cam kết sẽ đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Việc này có ý nghĩa như thế nào đối với nước ta hiện nay, thưa Bộ trưởng?
- Việt Nam là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu, đồng thời có tổng lượng phát thải khí nhà kính hằng năm lớn (hiện đứng thứ 21 trên thế giới và đứng thứ 2 trong ASEAN). Tại Hội nghị COP26, Đoàn cấp cao của Việt Nam đã tham gia và phát biểu tại các phiên họp, sự kiện quan trọng có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của Việt Nam. Điều đó đã thể hiện tầm nhìn thời đại, quyết tâm và cam kết chính trị cao của Đảng, Nhà nước trong việc đẩy mạnh chuyển đổi kinh tế nhằm góp phần giải quyết khủng hoảng khí hậu. Đồng thời cũng cho thấy vị thế, trách nhiệm của Việt Nam trong việc giải quyết những thách thức nghiêm trọng của toàn cầu...
Chúng ta đã tham gia nhiều sáng kiến rất quan trọng như cam kết không xây dựng mới điện than; cam kết về bảo vệ rừng và sử dụng đất hợp lý; tham gia liên minh thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu... Đây là những cam kết rất mạnh mẽ của Việt Nam, hòa cùng với xu thế chung của nhân loại - xu thế hành động mạnh mẽ về phát triển ít phát thải. Các cam kết của Việt Nam đã được các nhà lãnh đạo các nước, các tập đoàn lớn trên thế giới đánh giá cao.
Thực tế, để đưa ra những cam kết trên, ngay trước thời điểm chính thức tham dự COP26, Việt Nam đã có sự chuẩn bị rất kỹ lưỡng; trong đó có việc đưa vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu, các cam kết của Việt Nam thực hiện Thỏa thuận Paris vào Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Nghị định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone…
- Bộ trưởng có thể cho biết những giải pháp để thực hiện cam kết COP26 của Việt Nam?
- Ngay sau COP26, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26 với sự tham gia của các bộ trưởng, thành viên Chính phủ. Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo. Đến nay đã có nhiều đối tác ghi nhận sự nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc cụ thể hóa các cam kết quốc tế, phát triển cam kết; đồng hành, hợp tác với Việt Nam triển khai thực hiện cam kết; hợp tác phát triển kinh tế tuần hoàn, phát triển hạ tầng ứng phó biến đổi khí hậu, đẩy mạnh chống rác thải nhựa,...
Thời gian tới, chúng ta cần tập trung hoàn thiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với lộ trình đưa phát thải ròng của Việt Nam về “0” vào năm 2050; hoàn thiện các cơ chế chính sách, có những giải pháp đột phá trong việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư thuận lợi để hợp tác phát triển và thực hiện các dự án về chuyển đổi năng lượng. Đồng thời, cần tăng cường phổ biến, tuyên truyền để người dân và doanh nghiệp hiểu được những cơ hội, lợi ích lâu dài từ việc tham gia các sáng kiến toàn cầu về giảm phát thải khí nhà kính cũng như những thách thức trong ngắn hạn về chuyển đổi năng lượng, chuyển từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo… Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải chuẩn bị nguồn nhân lực trong nước thật tốt để đáp ứng việc áp dụng các công nghệ, quy trình sản xuất tiên tiến.
Việt Nam sẽ triển khai một số hoạt động trọng tâm nhằm thực hiện kết quả đạt được tại Hội nghị COP26, như: Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, quy định pháp luật về ứng phó biến đổi khí hậu; điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh, ít phát thải khí nhà kính và chống chịu tốt trước các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.
Về cập nhật đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam để phản ánh nỗ lực đưa phát thải về “0” vào năm 2050, Việt Nam xem xét đề ra chính sách để loại bỏ năng lượng hóa thạch và thúc đẩy phát triển mạnh điện gió ngoài khơi, điện mặt trời, điện gió trên đất liền; điều chỉnh lại các mục tiêu của Chiến lược tăng trưởng xanh cho phù hợp lộ trình phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050; xây dựng lộ trình để nhanh chóng chuyển đổi phương tiện giao thông sang sử dụng điện...
- Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.