Hãy đánh những cái chiêng kêu thanh nhất, những chiêng kêu trầm nhất. Đánh nhè nhẹ cho gió đưa xuống đất. Đánh cho tiếng chiêng vang xa khắp xứ ! Đánh cho tiếng chiêng luồn qua sàn lan đi xa. Đánh cho tiếng chiêng vượt qua mái nhà vọng lên trời, cho tất cả chỉ còn lắng nghe tiếng chiêng của Đam San!
Ảnh: Gia Tòng
Những tiếng chiêng làm say đắm lòng người và muôn loài từ Trường ca Đam San xa xưa như còn vang vọng giữa núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. Đó là niềm vui tràn đầy trời đất, là tấm lòng, là tình cảm và thế giới tâm hồn của người Tây Nguyên. Tiếng chiêng đã nói lên tất cả tấm lòng hiếu khách của người chủ, nỗi hân hoan trân trọng của dân làng và sự rộn ràng của cảnh vật núi rừng thiên nhiên. Những âm thanh trầm bổng quyến rũ đó của cồng chiêng Tây Nguyên đang được Cục di sản văn hóa, Sở VH-TT các tỉnh Đắc Lắc, Đắc Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Hội Văn nghệ dân gian VN, Viện Nghiên cứu văn hóa (thuộc Viện KHXH VN) và Viện Âm nhạc lập hồ sơ để trình UNESCO xem xét công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể thế giới. Nhạc sĩ Đặng Hoành Loan, Vện trưởng Viện Âm nhạc nhận xét: “ Việc Bộ VH-TT lựa chọn và lập hồ sơVùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyênlà rất chính xác. Từ góc độ nghiên cứu, chúng tôi đánh giá rất cao giá trị âm nhạc và văn hóa của cồng chiêng Tây Nguyên. Bảo tồn được cồng chiêng Tây Nguyên là bảo tồn được cả một vùng sinh thái văn hóa !”.
Cồng chiêng có lịch sử lâu đời trên đất Việt Nam. Thật thú vị khi nhìn vào những hình khắc trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, ta nhận thấy những hình thức sinh hoạt âm nhạc của cha ông ta được diễn tả cách điệu rất sống động với đủ trống đồng, chiêng, cồng, chuông đồng, trống mặt da, khèn,...Theo Giáo sư tiến sĩ Tô Ngọc Thanh, nếu ở các dân tộc Việt, Thái, Tày, Khơ Mú, cồng chiêng mới chỉ được dùng như các nhạc cụ nhịp điệu, thì ở dân tộc Mường và các dân tộc Tây Nguyên (Bana, Giarai, Êđê, Sêđăng, Rơngao, M’nông, Mạ, Kơho, Hơrê, Giẻtriêng,..), cồng chiêng được tổ chức thành dàn nhạc, diễn tấu những bản nhạc đa âm với các hình thức chủ điệu, đa điệu, hòa điệu khác nhau.
Đây chính là giá trị quý báu của nghệ thuật âm nhạc cồng chiêng các dân tộc Việt Nam. Đặc biệtTây Nguyên là nơi cồng chiêng phát huy tính âm nhạc cao nhất. Nhạc sĩ Đặng Hoành Loan khẳng định : “ Hiện nay trên thế giới chỉ có duy nhất ở vùng Tây Nguyên Việt Nam có lối chơi cồng chiêng mang tính dân chủ cộng đồng rất cao. Mỗi người chỉ đánh một cái chiêng, mà phải hơn 20 người mới tạo thành một bản nhạc với tất cả các tiết tấu, hòa thanh rất phong phú.”. Theo một số nhà nghiên cứu âm nhạc Đông Nam Á, ở Lào, Campuchia, Thái Lan có những dàn cồng nhỏ kết thành dàn tròn hay ở Malaixia có dàn cồng keromong, cồng kenong, Brunây và Philippin có những dàn kulingtan, cồng agung, Inđônêxia có gong ageng hay gong gedé,...
Như vậy, ở các nước Đông Nam Á khác, cồng chiêng đều kết thành dàn, trở thành một loại nhạc cụ trong dàn nhạc và do một nghệ sĩ diễn tấu. Riêng ở Tây Nguyên mình, cách diễn tấu cồng chiêng vẫn giữ được nét rất cổ xưa. Những chiếc cồng Bố, cồng Mẹ, cồng Con, những chiếc chiêng Con, chiêng Cháu, chiêng Anh, chiêng Em...mỗi người chơi một cái mà hòa vào thành bản nhạc. Điều này đòi hỏi tính thống nhất cộng đồng rất cao. Khi tiếng cồng chiêng vang lên là những lời đối thoại bằng giai điệu âm nhạc cất lên từ tâm hồn của cả cộng đồng dân tộc đó. Tiếng chiêng của người Bana chậm rãi, hùng tráng; tiếng chiêng của người Giarai sôi động với tiết tấunhanh; tiếng chiêng của người Êđê là những tiếng va đập mạnh, âm thanh hoàn toàn khác nhau...
Giáo sư Tô Ngọc Thanh cho biết,đối với các dân tộc ở Tây Nguyên, cồng chiêng còn mang sức mạnh thiêng. Xưa kia, đồng bào tin rằng trong mỗi cái chiêng đều có “thần” (yang chênh). Cồng chiêng càng cổ thì sức mạnh của “thần” càng lớn. Vì thế, có cái cồng phải đổi hàng chục con trâu. Người có nhiều cồng chiêng không chỉ là người giàu của cải mà quan trọng hơn, là người được nhiều “thần cồng chiêng” giúp đỡ, bảo hộ. Dàn cồng chiêng càng nhiềulà buôn làng càng đông đàn con cháu. Hiện trong Viện Âm nhạc có lưu giữ bộ cồng chiêng có đến 24 chiếc của dân tộc Giarai. Đối với các dân tộc Tây Nguyên, âm thanh của cồng chiêng được coi là tiếng nói để con người thông quan với các lực lượng thần linh. Có lẽ vì vậy, cồng chiêng có mặt trong hầu hết các sinh hoạt tâm linh của con người. Dân tộc Giarai làm lễ đón trẻ sơ sinh bằng những nhịp, những hồi cồng đánh bên tai đứa bé. Lễ đó gọi là Lễ thổi tai. Vì đồng bào cho rằng tai trẻ sơ sinh chưa “thông”, phải có tiếng cồng làm cho “thông”.
Theo cách hiểu ngày nay, tiếng cồng là tín hiệu văn hóa dân tộc. Nó làm “thông tai” trẻ sơ sinh để khi lớn lên, trẻ biết sống theo nếp ăn, thói ở, theo phong tục tập quán dân tộc. Cồng chiêng là nhạc cụ chính cho đám cưới, cho ngày mừng nhà mới, cho tang lễ. Cồng chiêng đi cùng suốt cuộc đời con người từ khi sinh ra đến khi chết. Cồng chiêng còn có mặt trong tất cả nghi lễ nông nghiệp từ lúc trỉa hạt, cầu an cho lúa, lễ cốm và cơm mới, thu hoạch và đưa lúa về kho. Cồng chiêng còn hòa tấu để hành lễ đâm trâu, đưa tiễn chiến binh lên đường ra trận và đón họ trở về trong chiến thắng. Cồng chiêng còn đánh đệm và đôi khi đóng vai “đối thoại” với nghệ nhân hát kể sử thi. Một điều rất lý thú nữa là chính những chiếc đàn gõphong phú bằng tre nứa như T’rưng, Klong put ở Tây Nguyên được mô phỏng theo các âm thanh của dàn cồng chiêng.
Những đứa trẻ trong buôn làng được học cách đánh cồng chiêng từ thuở ấu thơ chính bằng những nhạc cụ tre nứa này. Bằng âm thanh và âm nhạc của mình, cồng chiêng Tây Nguyên quán xuyến mọi nẻo cuộc sống của con người các dân tộc ở vùng đất này. Độc đáo vô cùng và quyến rũ vô cùng ! Chắc chắn một ngày gần đây Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên sẽ được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể thế giới.
HNM
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.