Theo dõi Báo Hànộimới trên

“Những bông hoa trên đầu súng”

ANHTHU| 10/10/2004 09:29

LTS:  Lady Borton  là nữ ký giả người Mỹ, hiện công tác tại một cơ quan đại diện nước ngoài ở Hà Nội. Các tác phẩm chính về Việt Nam: Hồ Chí Minh  - một chân dung. Tiếp  sau nỗi buồn, cảm nhận kẻ thù... Mới đây, bà đã có một hành trình thú vị, đi gặp những “bộ đội”  đầu tiên tiến vào Hà Nội cách đây 50 năm, và kể lại... Trong khuôn khổ có hạn, chúng tôi trích giới thiệu bài viết.

Học sinh Thủ đô chào đón đoàn quân chiến thắng trở về

LTS:Lady Bortonlà nữ ký giả người Mỹ, hiện công tác tại một cơ quan đại diện nước ngoài ở Hà Nội. Các tác phẩm chính về Việt Nam: Hồ Chí Minh- một chân dung. Tiếpsau nỗi buồn, cảm nhận kẻ thù... Mới đây, bà đã có một hành trình thú vị, đi gặp những “bộ đội”đầu tiên tiến vào Hà Nội cách đây 50 năm, và kể lại... Trong khuôn khổ có hạn, chúng tôi trích giới thiệu bài viết.

Những nămtrước đây, tôi thường được xem những thước phim ngườidân Hà Nội tung hoa lên những đoàn quân Việt Minh ngày mồng 10-10 năm Giáp Ngọ, và ngắm tấm ảnh nổi tiếng về người lính Việt đầu tiên, nhỏ bé mà kiêu hãnh, đi giữa hai sĩ quan Pháp to lớn, bước chân vào đất Hà thành quacây cầu sắt. Tôi đã phỏng đoán rằng cầu Long Biên là khởi điểm cuộc đón chào trên các cửa ô, và hẳn là việc chiếm Hà Nội khó có thể diễn ra màkhông có chạm súng...

Hóa ra tôi đã nhầm...

Người lính Việt trên ảnh là ông Vũ Huy Hậu, nay đã ngoàibảy mươi. Ngày ấy, ông là chính trị viên một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn Thủ đô, Đại đoàn quân Tiên Phong. ảnh chụp lúc ông dẫn đơn vị vượt qua cầu Đuống, huyện Gia Lâm, ngoại viHà Nội cách nội thành 10 cây số về hướng Đông - Bắc, vào 6h45 sáng ngày mồng 8-10-1954.

Sứ mạngcủa đơn vị ông Hậu quả là gian nan. Ông chỉ có 214 chiến binh đến nhận bàn giao 35 trọng điểm hành chính, kinh tế và văn hóa của Thủ đô từtay người Pháp. “Lính Pháp đầy rẫy mọinơi”, ông Hậu kể. “Chúng tôi sẽ phải giao chiến nếu cần. Nhưng chúng tôi không được làm bộc lộ các cơ sở hoạt động nội thành, và không được phép nhận bất cứ cái gì của dân thường. Tất nhiên, chúng tôi rất tự hào với nhiệm vụ được giao, nhưng cũng cảm thấy gánh nặng của nó. Lực lượng không đông và chỉ có thể trôngchờ vào bản thânmình”.

Nhưng Trung đoàn Thủ đô vào lúc đó đã nổi tiếng về khả năng biết dựa vào chính mình. Chính tiểu đoàn ông Hậu là đơn vị đầu tiên trở lại, khép kín vòng tròn có điểm khởi đầu là cuộc phòng thủ vô song của Trung đoàn trong nội thành 9 năm về trước.

Trongkhi đó, những người dân xóm chài Long Biênchở cả nghìncon người, trong đócó cả đàn bà và trẻ em trên những thuyền thúng, luồn lách dưới các trụ cầu, dưới ánh đèn pha và dưới gầm giầy những đội tuần tra của Pháp, lặng lẽ thoát ra ngoài.

Cho tới tháng Mười năm Giáp Ngọ, nhiều trong số những người ra đingày ấy đã nằm lại mãi trên những nẻo đường kháng chiến. Một số được thuyên chuyển sang các đơn vị khác. Nhiều người mới, phần đông từ các miền quê đã đứng vào hàng ngũ Trung đoàn Thủ đô. Vậy là trong số lính Việt Minh hành tiếnqua cầu Đuống sáng hôm ấy có nhiều ngườiđã sải những bước chân đầu tiên trên đường vào chốn đô thành.

Trong 214 con người đã nỗ lực chomột cuộctiếp quản không đổ máu, tới hôm nay chỉ cònhiện diện 11. Đó là một tập thể đầy tự hào mà khiêm nhường, câu đầu tiên thường là thông báo họ chỉnhân danh cho từng phân đội đã đóng góp vào thành quả của hai cái ngày đáng ghi nhớđó. Nét buồn vương vấn trên gương mặt những người lính già khi từngngười tronghọ kể về các đồng đội đã không trở về góp mặt sau ngày kết thúc hai cuộc chiến khốc liệt, dài ngày nhất của thời đương đại. Vàhai trongsố họ đã vui lòng đưa tôi đi lại hai lộ trình mà từng người đã đi trong các đội hình khác nhau của trung đoàn vào những ngày đó.

Ông Doãn Thạch Khôi, sinh ra tạiHà Nội,lớn lên ở Nam Định. Đã ngoại thất tuần, người lính già đầu bạc này vẫn tráng kiện với những tiếng cười như pháo ran. Chúng tôi bắt đầu cuộc đi từ chân cầu Đuống, phía Bắc Ninh.Ông Khôi chỉ ra phía xa, qua khỏi dòng xe cộ xối xả,những ngôi nhà và cửa hiệu. “Chúng tôi đi từ 4h sáng”. Vùngnày lúc đó toàn là đồng lúa. Không một bóng ngườichỉ có chúng tôi. Rồi trời bỗng đổ mưa, tôi ra lệnh cho phân đội khoác áo mưa vào. Nhưng trông anh em có vẻ lôi thôi. áo mưacái màu sáng,cái màu tối, cái lành, cái đã rách. Chúng tôi tới chân cầu lúc6h30, khi trời đã sáng. Vốn không chịu được cảnh nhếch nhác,tôi hạ lệnh:

- Cởi áo mưa ra

Ông Khôi cười khanh khách.

“Tôi đồ rằng bộ đội sẽ phải chịu mưa để giữ quân phong tề chỉnh. Nhưng anh em vừa bỏ áo mưara thì trời rạng dần, mưa tạnh. Vậy là điềm trời giúp”.

“Chúng tôi tiến lên cầu và thấy quân Pháp đang đứng chờ, cùng với cơ man nào là nhà báo Anh, Pháp rồi Ba Lan... với những máy ảnh, máy quay phim”. Ông lại cười vang. “Một thời khắc lịch sử như vậy nhưng Việt Minh chúng tôi lại không có một phóng viên nào”.

Ông Khôi dừng lại bên một tấm biển chỉ đường lên cầu Long Biên nay cho người đixe đạp. “Đây là chỗ chúng tôi lên xe của Pháp để đi về nội thành.Đoàn xe gồmmột tăng và những chiếc xe bọc thép. Bộ đội Việt Minhngườinhỏ nhưng thoăn thoắt leo lên thùng xe. Về đến Long Biênđã 7h30, chúng tôi bắt đầu hát, nhớ ngày nào chúng tôi luồn dướicây cầu này để thoát vây”.

Ông Khôi cho hay, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ,một Banliên hiệp quân sự gồm 150 sĩ quan Việt và Pháp đã được thành lập để giám sát việc chuyển giao. Liền đó tướng Giáp giao nhiệm vụ cho Trung đoàn Thủ đô làm nhiệm vụ quân quản, và họ đã dành cả tháng 9 cho công tác chuẩn bị. “Chúngtôi giả định một loạt các tình huống”, ông Khôi tiếp: “Chỉ được mang súng bộ binh nhẹ và vài quả lựu đạn. Nếu quân Pháp kháng cự thì sao ? Chúng tôi đã sẵn sàng, quyết đánh. Nhưng chúng tôi được lệnh tránh xung đột và bảo vệ các mục tiêu trọngyếu, không để địch phá. Người Việt Nam không chấp nhận tiếp quản một thủ đô không điện nước, không tàu hỏa, xe điện, không bưu điện, bệnh viện, đài phát thanh. Chúng tôi diễn tập một loạt tìnhhuống và thảo luận cách làm hòa dịu sự cay cúcủa quân Pháp. Chúng tôi thậm chí đã cắm hoa vào đầunòng súng !”. Đoàn công voa Pháp chở quân của Trung đoànThủ đô tới đồn Thủy vào khoảng 8h. “Không khíthật căng thẳng”. Ông Khôi ngắm khuôn viên làmặt tiền của bệnh viện Quân đội, lúc đó được dùng làm nơi gặp gỡ của hai bên. “Những xúc cảm tự nhiên trào dâng. Mới đây còn bắn, giết nhau. Bao nhiêu người bị bắn chết, bị thương, bao nhiêu nhà tan cửa nát, hàng triệu người chết đói...”.

“Tôi hiểu rằng cần làm không khí chùng xuống. Tôi chào viên sĩ quan Pháp trước. Anh ta cũng đưa tay lên vành mũ chào lại. Tôi tiến lại, chìa tay ra bắt”.

“Vive la paix !” (Hòa bình muôn năm), tôi hô.

“Quân Pháp sững ra rồi phá lên cười. Chúng tôi cũngphá lên cười. Hai bên bắt tay nhau. Quân ta chia làm 35 tổ, mỗi tổ từ 2 đến 35 người. Mỗi tổ có hai sĩ quan liên lạc người Pháp hộ tống. Tổ của tôi có 13 người, chịu trách nhiệm tiếp quản nhà máy nước”...”Quân Phápcanh gác cho cả nhà máy điện và nhà máy nước. Mỗinhà máy có nhiềuvọng gác và mỗi phiên gác kéo dài 8 giờ. Lính Phápở đây khoảng hơn bảy chục. Còn chúng tôi: Chằn chặn mười ba tay súng trường, dăm quảlựu đạn”. “Chúng tôi đến từ sáng mồng Tám, nhưng quân Pháp còn ở lại đến tận sáng hôm sau. Tôi đã lo lắng”. “Chúng tôi ở tầng hai, cả 12 người ở một phòng. Không có đồ ăn”.

“Tôi quyết định bày tỏ sự thân thiện với quân Pháp”. Ông Khôi cười và bắt đầu một điệu vũ,úp một bàn tayvào bàn tay tôi vừa đi vừa múa xung quanh tôi với những bướcnhảy “phong lưu mã thượng”. “Chúng tôi hát, múa. Quân Pháp cũng vậy. Đêm ấy cả phân đội không ngủ vì kích động, lo lắng, và chính là vì đói. Rồi ngồi quây quần nghỉ.Rồi lại hát vang để xua cơn đói”.

Sáng mồng Chín, quân Pháp bắt đầu rút qua cầu Long Biên. Ông Khôi đi lại trước cổng nhà máy nước để giám sát. Ông ra lệnh cho bộ đội chỉnh đốn quân dung. Rồi ông rút từ ba lô ra một lá cờ. Vài phút sau nó đã tung bay trên Nhà máy Nước Hà Nội”.

Tới sáng mồng Mười xe tới nơi, mang cơm, xúc xích, cá và các món rau đến, chấm dứt cơn đói hai ngày đêm. “Kể từ đó tôi được biết đến nhiều cỗ bàn, tiệc tùng”, ông Khôi kết luận.“Nhưngkhông gì sánh được bữa cơm ấy. Mónsalad thật là ngon. Tôi chưa từng ăn salad kiểu ấy trước đó. Lá xà lách trộn với dầu ăn và dấm chua chua lại bùi bùi”.

Ông Trần Đông cũng dẫn một cánh quân tiến vào nội thành ngày đó, từ hướng Ô Cầu Giấy ... ông dẫn tôi theo đường Điện Biên rẽ sang Hàng Bông, khởi điểm của khu phố cổ. Những con phố hẹp rợp bóng cờ các quốc gia ASEM, các biểu ngữ chào mừng kỷ niệm lần thứ 50 ngày tiếp quản Thủ đô, các lá cờ hình vuông, viền tua răngrồng ngũ sắc của nước Việt thời cổ. Ông Đông mỉm cười hồi tưởng: “Chúng tôi đã đi đều không được chỉnh cho lắm trên đoạn phố này. Cũng dễ hiểu thôi. Chúng tôi ở chốn rừng núi về,quen vừa chạy vừa ẩn nấp, tiến quân kiểu “lai vô ảnh khứ vô hình”. Còn hôm ấy, chúng tôi cố vừa hát, vừa đi đều, vừa đón bắt những bông hoa”. Tới phố Hàng Đào, ông Đông trỏ một cửa hiệu trang hoàng những chiếc đèn lồng quết giấy hồng điều. “Đây là ngôi nhà tôi đã sống thời thơ ấu”.

“Ngày ấy, tôi hỏi, chỉ tấm biển thông báo khu phố cổ được công nhận là di tích lịch sử của quốc gia. Ông có nghĩ rằng sẽ lại đingang những phố phường của thuở thiếu thời sau hàng nửa thế kỷ,trong một lễ kỷ niệm trọng thể và tráng lệ đến nhường này”.

“Dĩ nhiên là không”. Ông Đông đáp, ánh mắtnhư lấp lánh men say ngày hội. “Và tôi càng không ngờ lại đi cùng với một người bạn Mỹ”.

HNM

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
“Những bông hoa trên đầu súng”

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.