(HNM) - Vài tháng trước Tết Ất Mùi 2015, cứ mỗi cuối tuần, làng Lai Xá (huyện Hoài Đức - Hà Nội) lại được đón thêm những người khách từ xa tới. Nơi họ tìm đến là Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên, nằm gọn trong khuôn viên một ngôi nhà bốn tầng rợp cây lá.
Bảo tàng vinh danh nhà bác học, người đứng đầu ngành giáo dục trong suốt 29 năm, do chính những người con của ông xây dựng tại quê nội. Cũng chính họ tự tay mở cửa đón khách và kể lại câu chuyện về người cha kính yêu của mình, câu chuyện về một gia đình mang nhiều dấu ấn gắn với những sự kiện lịch sử đất nước.
Khách tham quan “Ngôi nhà ký ức” -Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên. |
Phong cách trưng bày hiện đại với ngôn ngữ giản dị, chân thành là điều mà Phó giáo sư Nguyễn Văn Huy, người con trai út của cố Giáo sư Nguyễn Văn Huyên hướng đến khi tạo dựng ý tưởng cho việc hình thành ngôi nhà "ký ức gia đình" của mình. "Tinh thần này đã xuyên suốt các không gian trong bảo tàng với 3 chủ đề trưng bày: Tuổi trẻ của cha mẹ chúng tôi, câu chuyện nghiên cứu khoa học của cha và những hoạt động của ông trong gần 30 năm tham gia lãnh đạo ngành giáo dục", ông Nguyễn Văn Huy cho biết.
Gần 400 hiện vật được lựa chọn từ hơn 1.300 kỷ vật của gia đình không chỉ tái hiện chân dung một nhà sử học, dân tộc học và nhà giáo dục, mà còn phác họa một giai đoạn lịch sử. Đó là chân dung một "ông nghè Tây học", người Việt Nam đầu tiên bảo vệ luận án tiến sĩ văn chương tại Đại học Sorbonne - Pháp, được mời làm Bộ trưởng Quốc gia giáo dục Việt Nam từ năm 1946, đảm trách vị trí này trong gần ba thập kỷ, cho tới khi qua đời vào năm 1975. Luôn bên cạnh ông là phu nhân Vi Kim Ngọc, bà kiên trì yêu thương, vun đắp nền tảng gia đình vững chắc, vừa nâng niu, lưu giữ từng kỷ vật quý, như một tiền đề để các con sau này tạo lập bảo tàng về người cha Nguyễn Văn Huyên.
Cố Giáo sư Nguyễn Văn Huyên và phu nhân. |
Những lát cắt cuộc đời qua những hiện vật và kỷ niệm gắn bó với sự nghiệp giáo dục đã thể hiện phần nào tầm nhìn và tinh thần nhân văn của một trí thức lớn. Một trong số đó là bài phát biểu quan trọng của ông trong lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam, diễn ra ngày 15-11-1945, với tư cách Tổng Giám đốc Đại học vụ. Ở đó, ông đã xác lập nhiệm vụ và đường hướng phát triển nền đại học lúc bấy giờ. Ông nhấn mạnh trọng trách của giáo dục Đại học: "Chúng tôi cảm thấy cùng có trách nhiệm đào tạo một số đông những người có đủ đức tính và khả năng để lãnh đạo cho quần chúng, những bậc quân tử, nếu các ngài cho phép tôi dùng một chữ cổ, trong nghĩa cổ, của một nền văn minh Đông phương, những người vừa biết trau dồi về kiến thức để có thể tự biết phẩm bình mọi lực lượng văn minh, vừa biết xử sự về thực tế để có thể đem áp dụng ngay trong đời sống những hiểu biết của mình, để cùng anh chị em, đồng bào các giới nêu cao ngọn quốc kỳ trong mọi cơn giông tố và trong mọi cuộc hội họp quốc tế về văn hóa trên nền hòa bình, công lý, tự do, hạnh phúc, bác ái sán lạn của nhân loại mai sau".
Ở thời điểm đó, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên đã có những ý tưởng mang tính đột phá về việc hình thành đội ngũ giảng viên và trí thức lúc bấy giờ: "Về vấn đề giáo sư, chúng tôi có trách nhiệm là lập hẳn một ngạch mới vì nền tảng của Pháp thuộc để lại đã quá mỏng yếu. Trong sự lựa chọn giáo sư là những vị có nhiệm vụ tối cao dẫn đạo cho các bạn thanh niên, trí thức tân tiến nước nhà trong thời gian lịch sử quan trọng này, chúng tôi đã căn cứ không chỉ về bằng cấp mà cả về kinh nghiệm. Chúng tôi đã chú trọng tới những nhà chuyên môn có trực tiếp thẳng tới đời sống của dân tộc, tới tất cả những ngành hoạt động trong nước như bác sĩ, bác học, kỹ sư…".
Đi sâu tìm hiểu những gì mà người cha - nhà khoa học Nguyễn Văn Huyên để lại, Phó giáo sư Nguyễn Văn Huy đã định hình ba vấn đề quan trọng, cũng là định hướng cho sự phát triển của nền giáo dục đại học thuở ban đầu gian khó: Đại học là nền tảng của kiến thiết quốc gia. Để kịp thời phục vụ nhu cầu cấp bách của kháng chiến, các trung tâm đại học, mà trước hết là hai ngành y và sư phạm đã được gấp rút xây dựng.
Một "phong cách Nguyễn Văn Huyên", với tư tưởng dân chủ để tập hợp trí thức và các tầng lớp xã hội cùng xây dựng nền giáo dục, đã được ghi nhận qua các văn bản hành chính, biên bản các cuộc hội nghị giáo dục trong thời kháng chiến chống Pháp… Các quyết sách lớn về giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng đều dựa trên việc thảo luận dân chủ và tôn trọng ý kiến của các nhân sĩ, trí thức thuộc các lĩnh vực và ngành nghề khác nhau, các thầy cô giáo có kinh nghiệm trong công tác giảng dạy và quản lý giáo dục. Các quyết sách này được quyết định ngay trong các hội nghị giáo dục. Hội nghị không phải chỉ bàn thảo rồi để đấy, mà bàn để đi đến những quyết định trực tiếp.
Một nhiệm vụ quan trọng lúc bấy giờ mà Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt lên vai Bộ Quốc gia giáo dục là thu hút các tầng lớp trí thức tham gia vào công tác giáo dục, văn hóa, văn nghệ. Chính Giáo sư Nguyễn Văn Huyên, khi còn là Giám đốc Đông phương Bác cổ học viện đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn tham gia hai hội nghị đàm phán quan trọng với Pháp là hội nghị trù bị ở Đà Lạt và hội nghị Fonteneblaue. Sự quan tâm, động viên của Bác đã thực sự khiến vị trí thức Tây học cảm kích. Ông bà Nguyễn Văn Huyên và các con không thể quên hình ảnh Bác Hồ thân chinh tiễn đoàn ở sân bay khi lên đường và đón đoàn khi trở về. Khi ông công tác ở Pháp, trước chuyến sang thăm nước này, Bác Hồ đã cho người đi Lạng Sơn đón nhạc phụ của ông là cựu Tổng đốc Vi Văn Định về Hà Nội để bảo đảm an toàn cho cụ, giúp ông an tâm nơi đất khách. Bác Hồ thường xuyên thăm hỏi, gửi thuốc thang cho "cháu Hiếu và thím Huyên" khi con gái Nguyễn Kim Nữ Hiếu của ông mắc bệnh lao xương, phải chữa trị.
Nhắc lại những câu chuyện này, Phó giáo sư Nguyễn Văn Huy tin rằng những tình cảm và sự quan tâm đặc biệt của Bác Hồ đối với cha ông đã ảnh hưởng lớn đến những suy nghĩ và ứng xử của Giáo sư Nguyễn Văn Huyên đối với những trí thức và cán bộ dưới quyền trong cương vị Bộ trưởng, giúp cha ông có bên mình nhiều nhà khoa học lớn như: Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Lê Văn Thiêm, Trần Đức Thảo, Đặng Văn Ngữ, Đặng Thai Mai, Nguyễn Thúc Hào… Họ là những người đã đặt nền móng cho nền đại học và nghiên cứu khoa học Việt Nam, đào tạo nên thế hệ cán bộ khoa học đầu tiên của nước Việt Nam mới mà sau này đa phần đều trở thành những nhà khoa học đầu ngành ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Người xem có thể chứng kiến những tình cảm và ứng xử ấy trong không gian trưng bày "Cha tôi - một người thầy", qua nhiều bức thư tay hay những công hàm, công điện đã ngả màu thời gian. Đó là trường hợp Giáo sư Lê Văn Thiêm, người Việt Nam đầu tiên có Bằng tiến sĩ toán học. Năm 1949, Giáo sư Lê Văn Thiêm từ Pháp tới Bangkok (Thái Lan) rồi từ đó theo đường bộ qua Campuchia về rừng U Minh, tham gia kháng chiến và công tác tại Sở Giáo dục Nam bộ. Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên đã có công hàm số 16/P3 - CH ngày 25-1-1950 gửi Phó Thủ tướng Chính phủ, đề nghị điều động Giáo sư Lê Văn Thiêm ra miền Bắc giúp cho Bộ Quốc gia giáo dục, giữ cương vị Hiệu trưởng Trường Khoa học thực hành cao cấp được thành lập vào năm 1951. Bộ trưởng cũng đề nghị Bộ Tài chính ấn định số tiền phụ cấp cho các kỹ sư, bác sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài về nước đóng góp cho quê hương.
Chưa đầy một tháng sau đó, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên lại có công hàm số 21/P2-CH gửi Phó Thủ tướng, đề nghị đón bác sĩ Đặng Văn Ngữ từ Nhật Bản trở về theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm Giáo sư Trường ĐH Y khoa. Chính ông cũng đã yêu cầu Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu 4 hết sức giúp đỡ để bác sĩ có điều kiện ra Bắc. Một công điện khác cũng "yêu cầu báo cho bà Đặng Văn Ngữ ở Trường Chuyên khoa Châu Phong, Đức Thọ, Hà Tĩnh biết bác sĩ Đặng Văn Ngữ bận công việc quan trọng không thể vào đón được. Rồi Chính phủ sẽ tổ chức đưa ra, không cần lo về sinh hoạt và tài chính, sẽ có giải pháp. Cứ tin tưởng vào Chính phủ và các bạn ở Liên khu 4". Bộ trưởng cũng có công điện riêng đề nghị Ủy ban tạo điều kiện giúp đỡ về phương tiện để vận chuyển sách vở và những dụng cụ thí nghiệm của bác sĩ Đặng Văn Ngữ ra Việt Bắc. Bộ chịu trách nhiệm thanh toán khoản chi phí cho việc này.
Cũng trong năm 1950, Giáo sư Đặng Thai Mai được điều động từ Thanh Hóa ra công tác tại Bộ Quốc gia giáo dục. Trong công hàm số 73/P2-CH ngày 29 -8, Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên cũng chỉ thị cụ thể: "Ông Đặng Thai Mai hiện nay người yếu không đi bộ được, cần cáng, và khi ra, gia đình cũng theo ra. Để ông Đặng Thai Mai có đủ điều kiện và phương tiện di chuyển cùng gia đình, bản Bộ đề nghị quý Bộ trợ cấp đặc biệt cho ông ấy một số tiền 10 vạn đồng"…
Không xa lạ với chủ trương đổi mới giáo dục - đào tạo đang nóng hổi hiện nay, từ ba phần tư thế kỷ trước, tư tưởng, việc làm, cách ứng xử của nhà giáo - nhà khoa học Nguyễn Văn Huyên đã thể hiện một tầm nhìn chiến lược về giáo dục và tinh thần nhân văn thật đáng trân trọng. Những bài học giáo dục ấy vẫn còn nguyên giá trị, đang được gìn giữ trong "ngôi nhà ký ức" - Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.