Lâu lắm, ca trù mới mở được cuộc thi hát lớn. Hầu như các tỉnh có gốc ca trù từ xưa đều gửi các câu lạc bộ tới dự, khoe tiếng đàn, tiếng hát và nghệ thuật vụt roi chầu. Người hát, người đàn, người cầm chầu ở nhiều độ tuổi khác nhau.
Người hát, người đàn, người cầm chầu ở nhiều độ tuổi khác nhau. Có những giáo phường có từ vài trăm năm nay như giáo phường Cổ Đạm (Hà Tĩnh), giáo phường Lỗ Khê (Hà Nội), hoặc những giáo phường từng dặt dìu tiếng đàn, tiếng hát từ thế kỷ XIX như Ngải Cầu (Hà Tây), Đông Môn (Hải Phòng), Tứ Kỳ (Hải Dương), Giáo Phòng (Hưng Yên), Yên Xá (Nam Định)… Lại có những câu lạc bộ có truyền thống từ lâu đời, từ một dòng họ như Câu lạc bộ Thái Hà (Hà Nội). Có thể coi đây là một cuộc hội ngộ, giao lưu và đua tài lớn.
Sân Văn Miếu - Quốc Tử Giám bữa ấy chật người. Nhiều người say mê lối hát ca trù đủ các lứa tuổi đã đến. Những cụ ông mặc những bộ đồ khá chuẩn mực của Hà Nội xưa: mũ phớt, com-lê, ca- vát, tay chống ba toong; những cụ bà tóc bạc phơ, đeo chuỗi ngọc thạch, áo nhung đen. Ngồi bên tôi là những thiếu nữ dáng dấp rất Hà Nội, áo dài đẹp, tay cầm một bó cúc trắng, nhị phớt xanh tươi tắn…Họ đến đây với hoài niệm về một thời để nhớ, với lòng ngưỡng mộ một nghệ thuật thơ nhạc hài hòa đã một thời vang bóng.
Khi tiếng roi chầu, tiếng đàn, tiếng hát vào cuộc, nhìn những chiếc đàn đáy, cỗ phách, những quan viên, kép đàn và đào nương ngồi trên chiếu hoa; và câu hát đa tình, ngọt ngào “Hồng Hồng, Tuyết Tuyết…” vọng lên. Tôi không thể không nhớ tới cô Cầm trong bài thơ nổi tiếng “Long Thành cầm giả ca” và đêm hát Văn Miếu thuở quân Tây Sơn ra Bắc độ nào. Không biết đêm ấy Nguyễn Du đứng ở đâu và chắc hẳn ông đầy tâm trạng trong đêm hát này khi hạ những vần thơ đầy tâm huyết, đầy sự hòa đồng với danh ca thuở ấy, như thể chàng Giang Châu Tư mã Bạch Cư Dị từng đồng cảm với cô đào hát ở phường Hà Mô:
“… Vẻ say, thêm đẹp dáng Kiều
Búp ngà lựa khúc, dạt dào năm cung”
Hát hay đến nỗi, quân Tây Sơn mê đắm, thưởng không tiếc tay:
“Tây Sơn văn võ ngẩn ngơ
Thâu đêm biết mấy cho vừa cuộc vui…”
Vậy là những năm xưa, tại Văn Miếu cũng đã có những đêm tiếng đàn, tiếng hát của ca trù làm say lòng đạo quân bách chiến bách thắng của Nguyễn Huệ và một thi hào bậc nhất Việt Nam: Nguyễn Du.
Ngày hôm nay, cũng tại sân Văn Miếu này, nghệ thuật ca trù độc đáo của thơ, của nhạc lại phục sinh với những giọng ca nhuần và ấm của Đoàn Thị Chinh, một ca nương trẻ của Tứ Kỳ (Hải Dương), người đoạt giải xuất sắc và được trao xiêm áo của Ban giám khảo Liên hoan Ca trù toàn quốc 2005, như thể những y bát của các cao tăng truyền lại cho học trò xuất sắc.
Hai ca nương nhỏ tuổi Nguyễn Thu Thảo và Nguyễn Kiều Anh được đánh giá cao tại Liên hoan ca trù toàn quốc 2005
“Cái tình là cái chi chi
Dẫu chi chi cũng chi chi với tình
Đa tình là dở
Đã mắc vào đố gỡ cho ra
Khéo quấy người một cái tinh ma
Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy
Đã gọi người nằm thiên cổ dậy
Lại đưa hồn đứng ngũ canh đi…”
Hai câu thơ đắm mình vào thiên nhiên của Chu Mạnh Trinh phóng khoáng, trữ tình khi viết “Hương Sơn phong cảnh ca”:
“Thỏ thẻ rừng mai, chim cúng trái
Lửng lơ khe yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chầy kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”
Tom… tom… tom… chát…
Roi chầu vụt thật hào hoa. Tiếng đàn gấp, nhanh, vui khi ở điệu vui; ấm ức, thâm trầm ở những điệu ngổn ngang tâm trạng… Và tiếng hát lúc ngập ngừng, lúc vút cao ở sân Văn Miếu đã tái hiện cả một thời nghệ thuật ca trù từng làm say đắm biết bao đời nghệ sĩ, văn nhân, tài tử…
Ca trù, viên ngọc quý của di sản văn hóa mang đậm bản sắc Việt Nam đã có cơ hội tái sinh.
HNM
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.