(HNM) - Cuối năm 1940, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng, nhân dân Nam Kỳ (Nam Bộ) đã anh dũng đứng lên khởi nghĩa, tiến công vào ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp. Đây là cuộc khởi nghĩa vũ trang có phạm vi rộng nhất và mức độ quyết liệt nhất kể từ khi thực dân Pháp xâm chiếm Nam Kỳ (1867) đến thời điểm đó; ghi một mốc son vẻ vang trong dòng chảy lịch sử dân tộc.
1. Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Lợi dụng tình thế chính quyền Pháp ở chính quốc đầu hàng phát xít Đức, tháng 9-1940, quân đội Nhật tiến vào Đông Dương. Chính quyền thực dân Pháp chống cự yếu ớt, rồi thỏa hiệp với phát xít Nhật để cùng nhau cai trị, bóc lột nhân dân Đông Dương. Mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với đế quốc phát xít Pháp - Nhật càng trở nên sâu sắc.
Để đối phó, Pháp tăng cường bắt lính ở Nam Kỳ ra mặt trận làm bia đỡ đạn cho chúng. Căm thù thực dân và hưởng ứng khẩu hiệu của Đảng Cộng sản Đông Dương “Không một tên lính, không một đồng xu cho chiến tranh đế quốc”, lại được cổ vũ bởi tiếng súng cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn (tháng 9-1940), nhân dân Nam Bộ sục sôi tranh đấu.
Ðến giữa tháng 11-1940, trước tinh thần đấu tranh của quần chúng, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định phát động toàn Nam Kỳ nổi dậy đánh đổ chính quyền thuộc địa, giành chính quyền về tay nhân dân. Thời gian khởi nghĩa bắt đầu vào đêm 22, rạng ngày 23-11-1940.
Trong lúc nhân dân Nam Kỳ tích cực chuẩn bị khởi nghĩa, Hội nghị Trung ương Ðảng họp tại Ðình Bảng (Bắc Ninh) từ ngày 6 đến 9-11-1940 nhận định, điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi, từ đó đề nghị Xứ ủy Nam Kỳ chưa nên phát động khởi nghĩa. Tuy nhiên, do điều kiện truyền đạt thông tin liên lạc gặp khó khăn, lệnh dừng khởi nghĩa của Trung ương từ miền Bắc vào chậm, trong khi mệnh lệnh phát động nổi dậy đã được ban bố toàn miền, không thể hoãn lại.
Có một tình huống đáng tiếc nữa là trước ngày khởi sự, một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của ta bị địch bắt, kế hoạch khởi nghĩa bị lộ. Thực dân Pháp ra sức lùng sục bắt bớ, thiết quân luật giữ binh lính người Việt ở trong trại, tước vũ khí của binh lính phản chiến. Dù vậy, cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn diễn ra theo kế hoạch.
Khởi nghĩa bùng nổ đồng loạt tại hầu hết các địa phương Nam Kỳ (18/20 tỉnh) với tinh thần quyết liệt. Lực lượng vũ trang và quần chúng đã nổi dậy tiến công địch ở các xã, tập kích nhiều đồn bốt, tiến đánh một số quận lỵ, phá hỏng nhiều cầu, đường giao thông... Chính quyền địch bị phá vỡ từng mảng lớn ở nông thôn và một số vùng ven đô. Chính quyền cách mạng được thành lập. Những phần tử phản cách mạng bị đưa ra xét xử. Ruộng, thóc của địa chủ phản động được chia cho dân cày nghèo.
2. Trước tình hình trên, thực dân Pháp và tay sai đã đàn áp cuộc khởi nghĩa rất tàn khốc. Không quân Pháp ném bom tàn sát nhân dân những vùng nổi dậy, đặc biệt ở địa bàn trọng điểm. Trong thời gian từ ngày 22-11 đến 31-12-1940, ở các tỉnh Gia Định, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, thực dân Pháp bắt gần 6.000 người yêu nước tham gia đấu tranh, trong đó hàng nghìn người bị giết hại, bị đày ra Côn Đảo và các trại tập trung. Một số cán bộ ưu tú của Đảng Cộng sản Đông Dương bị bắt từ trước cuộc khởi nghĩa cũng bị chúng nhân dịp này đưa ra xử bắn như: Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Ðăng Lưu... Cơ sở Đảng bị tổn thất nặng, nhưng một số cán bộ và lực lượng nghĩa quân ít ỏi còn lại đã kịp thời rút vào rừng, lập căn cứ để củng cố lực lượng chờ cơ hội hoạt động trở lại.
Khởi nghĩa Nam Kỳ tuy diễn ra trong một thời gian ngắn, bị kẻ thù dìm trong biển máu, song có ý nghĩa lịch sử to lớn: Nêu cao tinh thần yêu nước quật khởi của nhân dân Nam Bộ; khẳng định chủ trương của Ðảng về chuyển hướng chiến lược đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo; là sự đấu tranh bằng võ lực rộng lớn mạnh mẽ đầu tiên, báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc đang đến gần; cũng là bước tập dượt trực tiếp cho quần chúng, cán bộ, đảng viên đi đến thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945.
Với cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ, từ trong quá trình chuẩn bị và diễn ra, lần đầu thiết chế “Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa” được đề cập trong truyền đơn rải ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tiêu ngữ “Việt Nam Dân chủ cộng hòa quốc” được viết trên các băng rôn treo trước trụ sở các ủy ban cách mạng ở Long Hưng, Vĩnh Kim (Mỹ Tho). Lá cờ đỏ sao vàng năm cánh xuất hiện trong Khởi nghĩa Nam Kỳ đã trở thành biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân, biểu tượng của tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân. Cờ đỏ sao vàng năm cánh sau đó đã được Đảng chọn làm biểu tượng của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh và đến ngày 9-11-1946 được ghi chính thức trong Hiến pháp là Quốc kỳ nước ta.
Ghi nhận sự đóng góp to lớn của cuộc khởi nghĩa lịch sử này, ngày 14-11-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 163-SL tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất cho Đội quân Khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940.
Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ là thực tiễn sinh động về phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân và để lại những bài học quý báu, đó là: Chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, vận dụng phù hợp, sáng tạo vào điều kiện thực tế của địa phương; chuẩn bị các điều kiện cần và đủ bảo đảm cho khởi nghĩa thắng lợi, nhất là vấn đề xây dựng lực lượng (bao gồm lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang), vấn đề nhận định, chớp đúng thời cơ; tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, coi trọng giữ vững sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và quần chúng, khơi dậy và nhân lên sức mạnh vĩ đại từ sự đồng tâm, hiệp lực của quần chúng. Những bài học kinh nghiệm đó được Đảng ta chắt lọc, vận dụng sáng tạo vào giai đoạn đấu tranh trên các chặng đường về sau.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.