Theo dõi Báo Hànộimới trên

Làng Khoan Tế

TUYETMINH| 02/01/2007 11:07

(HNMĐT)- Làng Khoan Tế gốc tên là Quán Hồng, sau đổi thành Khoan Hồng, là một làng nhỏ (năm 1928, làng có 794 nhân khẩu).. Đầu thế kỷ XIX là một thôn thuộc xã Đa Tốn, tổng Đa Tốn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (từ năm Minh Mạng thứ 12 - 1831 đổi thành tỉnh Bắc Ninh).

(HNMĐT)- Làng Khoan Tế gốc tên là Quán Hồng, sau đổi thành Khoan Hồng, là một làng nhỏ (năm 1928, làng có 794 nhân khẩu).. Đầu thế kỷ XIX là một thôn thuộc xã Đa Tốn, tổng Đa Tốn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (từ năm Minh Mạng thứ 12 - 1831 đổi thành tỉnh Bắc Ninh). Vào năm Mậu Thân (1848), vì kỵ húy Vua Tự Đức (Hồng Nhậm), làng phải đổi tên thành Khoan Tế. Đầu thế kỷ XX, làng được tách thành một xã độc lập.

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Khoan Tế là một xã độc lập. Kháng chiến bùng nổ, làng nằm trong xã Đại Hưng là một xã lớn thuộc huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên (năm 1949 lại chuyển về huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh). Sau Cải cách ruộng đất (năm 1957), xã Đại Hưng được chia thành hai xã : Tân Hưng (nay là xã Kiêu Kỵ) và Đại Hưng (gồm các làng : Khoan Tế, Đào Xuyên, Lê Xá, Ngọc Động và Thuận Tốn). Năm 1961, xã Đại Hưng cùng các xã khác trong huyện Gia Lâm được chuyển về thành phố Hà Nội. Năm 1965, xã Đại Hưng được đổi tên thành Đa Tốn.

Khoan Tế cùng với các làng trong xã Đa Tốn hiện nay nằm ở hữu ngạn sông Hồng. Vết tích của những lần thay đổi dòng chảy của sông hiện nay là Đầm Dài - một con đầm rộng lớn ngoài đồng làng. Tục truyền, xa xưa, thần trâu vàng (Kim Ngưu) nghe tiếng mẹ gọi đã chạy từ huyện Văn Giang (tỉnh Hưng Yên) về Hồ Tây. Trên đường đi, trâu vàng nghỉ ăn có ở cánh đồng Khoan Tế, đầm thành vũng lớn, tức con đầm hiện nay, là nguồn nước tưới dồi dào cho đồng ruộng của dân làng từ bao đời. Lại có thuyết cho rằng, con đầm này là khúc cạn của sông Đài Bi thời cổ, vốn là một nhánh lượn vòng của sông Nghĩa Trụ trước khi chảy vào sông Hồng, sông này từ năm 1961 đã mở rộng thành một nhánh kênh mương của công trình thủy nông Bắc Hưng Hải.
Khoan Tế là làng nông nghiệp đồng mùa, có chợ để trao đổi hàng hóa.


Làng Khoan Tế có nhiều di tích in đậm những dấu ấn của lịch sử. Nggy sát chợ làng có ngôi đền Ngoài, hay đền Thượng, thờ thần Bạch Mã, dân làng gọi là Thánh Anh - vị thần trấn ải cửa Đông Kinh thành Thăng Long. Chưa rõ đền được dựng từ bao giờ, nhưng tấm bia lập năm Đức Long thứ tư (1632) ghi rõ việc trùng tu đền vào thời điểm này. Làng còn thờ vị thủy thần là Phùng Kha đại vương (Thánh Em). Tương truyền, vào một năm xa xưa, trên khúc sông Đài Bi chảy qua làng hiện lên một khúc gỗ thiêng. Làng cắt một đoạn về làm bài vị thờ, đoạn còn lại trôi xuống địa phận làng Giang Cao (nay thuộc xã Bát Tràng) nên làng này thờ, vì thế hai làng Khoan Tế và Giang Cao có tục kết nghĩa với nhau. Cứ ba năm một lần có lệ rước kiệu từ làng vượt qua đường Con Voi sang Giang Cao (có tài liệu chép sang làng Xuân Quan huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) dài gần 5 km. để dự thổi cơm thi, thi luộc gà, đóng oản.

Làng có ngôi chùa mang tên Cự Đà, được xây dựng từ lâu, đầu thế kỷ thứ XVII, được trùng tu lớn.

Hội làng Khoan Tế diễn ra từ mồng 6 đến mồng 10 tháng Giêng. Trong hội có rước kiệu Thánh em về thăm Thánh anh, diễn các trò vui, trong đó vui nhất là trò thi pháo. Sân đình được chia thành 6 ô vuông, mỗi ô cắm một cần trúc dài khoảng 6 mét, trên ngọn có một vòng tròn bằng tre, đường kính bằng 2 tấc rưỡi, dán các tua giấy ngũ sắc. Người dự thi đứng dưới gốc cần trúc, châm lửa đốt pháo rồi ném qua vòng ngũ sắc, làm cho vòng đung đưa trong không trung. Thực chất của việc ném pháo này là nghi lễ của tục thờ mặt trời (giống như ném còn trong hội của nhiều tộc người thiểu số).

PGS, TS . Bùi Xuân Đính

(0) Bình luận
Đừng bỏ lỡ
Làng Khoan Tế

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.