Chính trị

Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 80 năm lời thề độc lập

TS Hoàng Thị Phương 26/08/2025 - 06:37

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, phát xít Nhật đã đầu hàng, nhưng đó cũng là lúc thực dân Pháp rắp tâm quay trở lại và các thế lực đế quốc đang nhăm nhe chia cắt Việt Nam. Bản “Tuyên ngôn Độc lập” ra đời trong bối cảnh đặc biệt đó.

Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” tại Quảng trường Ba Đình.

bac-ho-doc-tuyen-ngon.jpg
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Lời khẳng định đa chiều về nền độc lập dân tộc

“Tuyên ngôn Độc lập” đã khẳng định nền độc lập của Việt Nam là nền độc lập trên cơ sở pháp lý và nhân văn của thời đại. Mở đầu bằng việc trích dẫn những câu bất hủ từ “Tuyên ngôn Độc lập” của Mỹ và “Tuyên ngôn Dân quyền” của Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không chỉ mượn lẽ phải, mà còn khéo léo khẳng định một sự thật phổ quát: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Suy rộng ra, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc cũng đều có quyền bình đẳng, quyền tự do và quyền dân tộc tự quyết. Bằng cách đó, bản “Tuyên ngôn Độc lập” đã nâng nền độc lập của Việt Nam lên tầm cao của lẽ phải và giá trị chung của nhân loại, là lời tuyên bố đanh thép với toàn thế giới về khát vọng chính nghĩa của dân tộc ta.

Tuy nhiên, giá trị lớn nhất của “Tuyên ngôn Độc lập” là sự khẳng định một nền độc lập thực sự, không phải được ban phát, mà là do chính nhân dân ta tự giành lấy. Sau khi vạch trần tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, Tuyên ngôn đã tuyên bố: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập...”.

Bằng việc khẳng định độc lập mà dân tộc Việt Nam giành được là cả một quá trình đấu tranh gian khổ, bền bỉ, đầy máu và nước mắt của nhiều thế hệ, Tuyên ngôn đã chỉ ra rằng chủ thể sáng lập và tạo ra nền độc lập đó chính là nhân dân Việt Nam. “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay... dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Đồng thời, trong bản “Tuyên ngôn Độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo gắn cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới chiến thắng phát xít trong Chiến tranh thế giới lần thứ II. Từ đó khẳng định nền độc lập mà dân tộc Việt Nam giành được là nền độc lập thực sự và chính nghĩa. Một nền độc lập được xây dựng trên nền tảng vững chắc của ý chí và sự hy sinh của toàn dân tộc như vậy chính là cội nguồn sức mạnh, là điểm tựa vững chắc để Việt Nam tiếp tục bước vào những cuộc trường chinh kháng chiến ngay sau Cách mạng Tháng Tám.

“Tuyên ngôn Độc lập” ra đời khi cuộc đại chiến thế giới lần thứ II kết thúc mang một giá trị đặc biệt. Nó không chỉ giới hạn trong khuôn khổ văn bản pháp lý, khẳng định quyền tự chủ của dân tộc ta với toàn thế giới, khẳng định về sự thoát ly chế độ thuộc địa của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã bại trận, mà còn chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế ngót ngàn năm, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do. Tuyên ngôn tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Vì những lẽ trên, “Tuyên ngôn Độc lập” kết thúc bằng một lời thề thiêng liêng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đặt trong bối cảnh vừa giành chính quyền, kẻ thù bao vây tứ phía, đây không chỉ là lời tuyên bố mà còn là lời thề độc lập, lời thề quyết tâm giữ gìn và bảo vệ nền độc lập thiêng liêng của đất nước.

Lời thề độc lập và sức mạnh nội sinh dân tộc

Nếu “Tuyên ngôn Độc lập” là lời tuyên bố khai sinh một kỷ nguyên mới, thì những năm tháng chiến tranh sau đó chính là minh chứng sống động cho lời thề độc lập được toàn dân tộc hiện thực hóa một cách son sắt. Lời thề ấy đã trở thành nguồn sức mạnh nội sinh, đưa dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách, bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945. “Lời thề độc lập” đã thôi thúc toàn dân tộc đứng lên trong cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ chống thực dân Pháp. Khi hòa bình bị đe dọa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” năm 1946, hiệu triệu mỗi người dân không phân biệt già, trẻ, gái, trai: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Lời thề năm xưa đã biến thành tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, là động lực để Việt Nam làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

Tuy nhiên, lời thề thiêng liêng ấy chưa dừng lại ở đó. “Lời thề độc lập” tiếp tục là ngọn lửa thắp lên ý chí chiến đấu của quân và dân cả nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất non sông. “Lời kêu gọi đồng bào chiến sĩ cả nước” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 15-7-1966 đã tái khẳng định ý chí đó một cách đanh thép: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”. Lời hiệu triệu ấy đã trở thành lẽ sống, là niềm tin sắt đá của biết bao thế hệ. Để giữ vững lời thề đó, cả dân tộc đã phải đối mặt với một đối thủ có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất thế giới. Đó là sự hy sinh của cả một dân tộc, của những người con trai, con gái tuổi mười tám đôi mươi ra trận, của những bà mẹ mòn mỏi chờ con, của những người vợ tiễn chồng đi và không hẹn ngày về.

Chính ý chí quyết tâm đánh Mỹ của Đảng, của dân tộc ta đã khẳng định một cách mạnh mẽ nhất giá trị của Cách mạng Tháng Tám, của bản “Tuyên ngôn độc lập”. Mất mát, đau thương là không thể đong đếm, nhưng cũng chính sự hy sinh lớn lao ấy đã cho thế giới thấy rằng một dân tộc nhỏ bé nhưng có ý chí kiên cường thì không thế lực nào có thể khuất phục được. Đó là khởi nguồn của nền độc lập thực sự.

Bản “Tuyên ngôn Độc lập” không chỉ là một văn kiện lịch sử mà còn là kim chỉ nam, là ánh sáng soi đường cho dân tộc Việt Nam trên con đường phát triển. “Lời thề độc lập” năm xưa đã trở thành nguồn sức mạnh nội tại, kết tinh những giá trị văn hóa tiêu biểu, tinh thần yêu nước và khát vọng hòa bình của dân tộc. Sau 80 năm, sức mạnh ấy vẫn tỏa sáng, được kế thừa, bổ sung và vận dụng một cách sáng tạo trong mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.

Trong tình hình thế giới ngày càng phức tạp, khó lường, những giá trị cốt lõi từ “Tuyên ngôn Độc lập” vẫn còn nguyên giá trị. Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế là linh hoạt, mềm dẻo nhưng tuyệt đối không bao giờ hy sinh lợi ích quốc gia, dân tộc. Chúng ta không đánh đổi độc lập dân tộc lấy sự phát triển kinh tế nóng. Đối với dân tộc Việt Nam, độc lập dân tộc là giá trị thiêng liêng nhất.

Lịch sử đã lùi xa 80 năm kể từ khi “Lời thề độc lập” vang vọng từ Quảng trường Ba Đình vẫn là hành trang và là nội lực mạnh mẽ, là điểm tựa vững chắc để Việt Nam vững vàng bước vào kỷ nguyên phát triển và thịnh vượng. Trong những ngày thu lịch sử này, trên khắp các nẻo đường rợp bóng cờ hoa, mỗi người Việt Nam, từ thế hệ cha ông bước ra từ khói lửa chiến tranh đến thế hệ trẻ hôm nay sinh ra và lớn lên trong hòa bình, nhưng tất cả đều chung một niềm tự hào và xúc động. Trân trọng giá trị của độc lập, của hòa bình chúng ta mang theo “lời thề độc lập” và vun bồi thêm những giá trị thời đại để tiếp tục cống hiến, chung tay xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

(0) Bình luận
Nổi bật
    Đừng bỏ lỡ
    Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 80 năm lời thề độc lập

    (*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.