Mùa hè đến! Cái nắng đầu tiên theo những gánh khế kẽo kẹt nối nhau vào nội đô, mang theo vị ngọt ngào quê hương vào giấc mơ hồn nhiên của lũ trẻ trong phố
Ảnh: D.H
Bên kia sông, mùa khế bói quả, những cánh hoa nhỏ xíu, li ti, tim tím bắt đầu rụng lấm tấmxuống gốc như phủ một lớp thảm hoa. Cánh hoa theo gió rắc vương đầy ngõ xóm làng quê. Cánh hoa trôi bập bềnh trên mặt ao phẳng lặng rụng xuống từ cây khế già nghiêng mình soi bóng nước. Rồi những đài hoa kết đậu thành từng chùm quả ngọt lúc lỉu trên cành, to dần, mọng căng da múi khế khiến lũ trẻ về thăm quê ngắm hoài không chán mắt.
Cây khế, không biết tự bao giờ đã gắn với chốn làng quê, trở thành một phần hồn đất Việt trong câu chuyện cổ dân gian. Người emđôn hậu, thật thà đã đựoc chim thần trả vàng khi đến ăn khế. Còn người anh tham lam, độc ác đã chết chìm theo tham vọng mãi mãi dưới biển sâu... Cây khế gắn với vàng, với tấm chân tình còn quý hơn vàng của con người nên chính vì thế quả khế cũng có nghĩa có tình. Cùng với nhiều loài cây khác như tre, cau, thị... cây khế đã thành máu thịt chốn chân quê, gắn với những tình cảm nhân hậu, thủy chúng, sắt son truyền từ đời này sang đời khác qua từng câu chuyện cổ: "ăn một quả/trả cục vàng/may túi ba gang/mang đi mà đựng..."
Ảnh: D.H |
Đất Gia Lâm cùng soi bóng sông Hồng, đối điện với kinh thành cổ ngàn năm Thăng Long vẫn có tiếng cho quả khế cơm thơm ngon nức tiếng xa gần mà lại thân thương với người Hà Thành. Mấy thôn Bồ Đề, Lâm Du, Ngọc Du... nổi tiếng với những vườn khế xanh ngút ngát, kĩu kịt qủa. Cũng bởi đất ven sông màu mỡ, có hạt phù sa lắng bồi hàng năm, cũng bởi bàn tay con người chịu thương chịu khó mới trồng nên được thức quả ngọt dâng đời. Còn nhớ, khi xưa, đấtn ày đã trở thành vùng đất thiêng gắn liền với lịch sử Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội ngót mười thế kỳ nay. Thời Lý - Trần có các hành cung được đặt ở Gia Lâm, để nhà nước tiếp đón các sứ thần phương Bắc đến và nơi vua dừng chân chọn làm nơi nghỉ mát trong những ngày hè nóng nực. Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi đặt bản doanh tại Bồ Đề để chỉ huy cuộc phản công địch ở thành Đông Quan. Các triều đại sau này đều đặt cung điện tại Gia Lâm. Bến sông Bồ Đề xưa kia vẫn được truyền tụng là một trong tám cảnh đẹp củathành Thăng Long vào các thế kỷ XVII - XVIII. Sở dĩ có tên gọi là Bồ Đề vì trong thôn Phú Vinh bây giờ có tên nôm là Bồ Đề, tên gọi nhôm này xuất hiện trước thế kỷ XV để chỉ vùng đất có hai cây bồ đề cao ngang với tháp Báo Thiên phía Nam kinh thành Thăng Long. Sử cũ chép rằng: khi bao vây quân xâm lược Minh đóng trong thành Đông Quan vào cuối năm 1427, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã đặt đại bản doanh tại Bồ Đề, lập các lầu cao trên hai cây bồ đề này để quan sát giặc Minh đang bị bao vây trong thành; vì thế nó đựoc gọi là dinh Bồ Đề. Cùng với chiến thắng lừng lẫyquét sạch quân xâm lược nhà Minh, mảnh đất Bồ Đề đi vào lịch sử dân tộc ta. Sau chiến thắng, Lê Lợi còn đặt triều đình nhà Lê ở đây thêm một thời gian rồi mới tiến vào thành cũ. Về sau này, trên dinh cũ Bồ Đề các đời vua kế tiếp, khi thì cho xây dựng, khi thì cho xây đặt trạm dịch, khi thì đặt trạm binh đều gọi là Bồ Đề; cả đoạn sông Hồng chảy qua đây cũng gọi là sông Bồ Đề, có cả bến nước Bồ Đề...
Gia Lâm bây giờ đã lên phố, lên quận, những vườn khế cũng chẳng thể hạ nhiệt cùng cơn sốt đất đai ngày càng cao dần. Quả khế cơm múi cứ no căng vàng đượm, thơm ngây ngất, bày thành mẹt dọc chân cầu Long Biên đổ về ven con đê tả ngạn, nom sao thấy nao nao cùng lịch sử mảnh đất cổ.
Những người gánh khế sang bên kia sông lam lũ đi dưới nắng trưa mà trên miệng lại nở nụ cười dân dã, vì họ gánh cả quê hương bình yên trên vai mình. Có bao giờ, người ăn khế tíu tít bên gánh hàng rong tự hỏi:" ăn một quả - trả cục vàng" như con chim thần trong cổ tích?!
Ngân Hạ
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.