(HNM) - Cách đây hàng chục năm, có 6 gia đình ở làng nghề đúc đồng Ngũ Xã đã vào TP Hồ Chí Minh lập nghiệp, làm rạng danh nghề cổ tinh hoa Thăng Long - Hà Nội ở phương Nam. Thế nhưng, bây giờ cả làng nghề chỉ còn lại nghệ nhân Nguyễn Vinh Hiển vẫn cặm cụi theo đuổi nghề.
Một thời hoàng kim
Trong căn nhà 177A1 Trần Văn Đang (phường 11, quận 3) tràn ngập sản phẩm bằng đồng chạm khắc tinh xảo, ông Nguyễn Vinh Hiển (60 tuổi, quê gốc làng Ngũ Xã - Hà Nội) đưa chúng tôi về với ký ức xưa. Năm 1955, lúc đó ông mới tròn 3 tuổi đã theo bố mẹ và ông bà ngoại vào vùng đất Cống Bà Xếp (nay gọi là khu Hòa Hưng, quận 3) để mưu sinh. Có 5 gia đình khác trong làng Ngũ Xã cũng di cư trong đợt này. Ban đầu cả 6 gia đình không có tiền mở xưởng đúc, nên được thương nhân Trung Quốc thuê đúc đồng tam khí theo hình thức lấy công làm lời. Ông Hiển được gia đình truyền nghề cũng chính từ những ngày gian khó đó.
60 tuổi, ông Nguyễn Vinh Hiển vẫn cặm cụi với nghề tổ.
Đến khoảng năm 1970, những sản phẩm thủ công do những người gốc làng Ngũ Xã làm ra đã được khắp nơi biết đến, dần dần hình thành nên làng nghề đúc đồng Hòa Hưng nức tiếng cả vùng đất phía Nam. Làng nghề này không chỉ đúc đồng tam khí mà còn phát triển thêm hình thức đúc đồng đỏ nguyên chất có giá trị cao hơn. Nhờ vậy, mỗi lò đúc của một gia đình từ vài chục mét đã mở rộng lên vài trăm mét, từ hai lò (lò nung và lò khuôn tạo hình) đã nhân rộng lên cả chục lò, nhân công lên tới vài chục người, mỗi ngày nung cả vài trăm kilôgam đồng… Đây cũng được xem là quãng thời gian thịnh hành nhất của làng nghề đúc đồng Hòa Hưng xuất phát từ những nghệ nhân làng Ngũ Xã.
Giữ gìn tinh hoa nghề cổ
"Thợ làng nghề Hòa Hưng vẫn giữ những nét riêng của làng nghề tổ Ngũ Xã - một trong bốn nghề tinh hoa bậc cao của Thăng Long ngày xưa. Đến tận bây giờ chúng tôi vẫn tạo hình bằng khuôn đất sét và đúc thủ công. Mỗi sản phẩm làm ra đều theo các khuôn mẫu riêng", ông Hiển nói.
Muốn trở thành một người thợ đúc đồng giỏi phải thành thục 5 quy trình gồm: Kỹ thuật làm mẫu; tạo khuôn; pha chế đồng, nấu đồng và rót đồng; sửa nguội; chạm khắc và đánh bóng… Khó nhất là kỹ thuật tạo hình, có khi cả tháng trời không ăn không ngủ để nghĩ ra ý tưởng cho một sản phẩm. Chưa hết, để làm ra một chiếc đỉnh đồng cao khoảng 50cm mất ít nhất một tháng và công đoạn đúc đã chiếm nửa thời gian. Rót đồng vào khuôn cũng phải hết sức kinh nghiệm mới thành công. Phải để đồng thoáng và trong bằng cách gạt hết bã, sau đó mới rót vào khuôn. Rót phải đều tay, không được ngắt quãng, nhưng phải biết lúc nào cần phải ngừng. Như vậy các sản phẩm khi làm ra mới sáng một cách tự nhiên, càng lâu năm càng sáng bóng.
Đối với loại đồng vàng tam khí, chỉ cần nung bằng than củi bình thường với nhiệt độ trung bình khoảng 500 - 600 độ C. Tuy nhiên, đúc đồng đỏ nguyên chất thì phải dùng than đá với nhiệt độ trên 800 độ C. Với các sản phẩm chỉ cần vài chục kilôgam đồng trở xuống chỉ cần nung trong vòng 3-5 giờ đồng hồ, nếu vài trăm kilôgam đồng thì phải nung 8-12 giờ. "Nhiều sản phẩm như đỉnh đồng hay tượng Phật, sau khi đã được chạm khắc và đánh bóng còn phải đính các lõi bạc lên mỗi sản phẩm để tạo thẩm mỹ. Làm sao khi mỗi bức tượng được làm ra phải có hồn, phải sống động thì mới đạt đến độ tinh xảo - ông Hiển cho hay.
Khắc khoải lớp hậu thế
Làng nghề đúc đồng Hòa Hưng đến nay đã trải qua 57 năm. Thế nhưng, hiện cả làng, từ hàng chục người làm nghê, nay chỉ còn hai người là ông Hiển và vợ là bà Vũ Thị Mùi (55 tuổi) cặm cụi với nghề tổ giữa Sài thành sôi động. Ba người con của ông dù được truyền nghề từ lúc trên 10 tuổi nhưng giờ đều bỏ cuộc bởi ai cũng có một công việc cho thu nhập cao hơn. Chỉ những lúc rảnh rỗi, ba người con mới về nhà giúp bố mẹ làm những sản phẩm đồng truyền thống.
Ông Hiển tâm sự rằng, quy ước xưa của làng nghề là không truyền nghề cho người ngoài. Tuy vậy, trước nguy cơ thất truyền ông đã tìm được vài người trẻ để truyền nghề. Buồn thay, sau vài năm gắn bó, những người trẻ đó đã bỏ nghề do không chịu được vất vả, hoặc không đủ kiên nhẫn để học. "Chắc khoảng hai năm nữa tôi cũng phải nghỉ vì sợ không còn đủ sức khỏe. Nhưng tôi sẽ viết cuốn gia phả của làng nghề đúc đồng Hòa Hưng, nêu hết các kỹ thuật, bí quyết… để lớp hậu thế sau này nếu còn tâm huyết sẽ tìm đến mà học, mà giữ gìn và phát triển nghề!" - ông Hiển đau đáu nói.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.