(HNM) - Trước thông tin cho rằng tỷ lệ động viên thu Ngân sách nhà nước (NSNN)/GDP tại Việt Nam cao hơn các nước, ông Ngô Hữu Lợi, Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính) khẳng định, thuế suất của nước ta cũng đang điều chỉnh theo xu hướng giảm dần nhằm khuyến khích sản xuất phát triển.
- Cơ cấu thu NSNN của Việt Nam hiện nay gồm những nguồn nào và có khác biệt gì so với thế giới, thưa ông?
- Số thu NSNN từ thuế, phí mà nhiều nước công bố thường là số thu của ngân sách chính quyền trung ương, do các nước có sự độc lập giữa các cấp ngân sách. Tại Việt Nam, hệ thống NSNN thống nhất cả 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện và xã. Nguồn thu NSNN gồm: Thuế, phí, thu từ dầu thô, quyền sử dụng đất, bán nhà thuộc sở hữu nhà nước. Ngoài ra, còn có một số khoản thu phát sinh ngoài dự toán và các khoản khác như: Thu từ quỹ dự trữ tài chính, thu huy động vốn cân đối ngân sách địa phương, thu chuyển nguồn từ năm trước sang. Riêng thu từ dầu thô, nước ta cũng tổng hợp như khoản thu thuế, còn ở các nước khác, khoản thu này xếp vào loại "thu từ vốn bán tài nguyên quốc gia". Do đó, khi so sánh tỷ lệ thuế, phí ở Việt Nam với các nước, cần phải so sánh một cách đồng nhất và cùng bản chất giữa các tiêu chí thì kết quả mới tương thích. Nếu chỉ so sánh riêng tỷ lệ huy động từ thuế, phí/GDP như các nước đang tính, thì giai đoạn 2006-2010, tỷ lệ động viên từ thuế, phí (gồm cả dầu thô) của Việt Nam chiếm 24,9% GDP (trung bình các nước là 28,7%), nếu tính riêng cấp trung ương như các nước thì chỉ chiếm 17,9%. Nếu trừ dầu thô, tỷ lệ động viên ngân sách từ thuế, phí là 19,2% GDP (cấp trung ương là 12,2%). Nếu chỉ tính riêng các khoản thu nội địa, loại trừ các khoản thu không mang tính chất động viên như: Dầu thô, thu tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thu bán nhà thuộc sở hữu nhà nước, thu từ quỹ đất công ích và hoa lợi công sản... tỷ lệ động viên từ thuế, phí ở Việt Nam chỉ chiếm 13,4% GDP, trong đó cấp trung ương chỉ 6,5% GDP.
- Nhiều ý kiến cho rằng, "gánh nặng" thuế, phí của DN hiện khá lớn. Vậy nếu so sánh thuế suất của các sắc thuế chủ yếu ở Việt Nam hiện nay với các quốc gia khác liệu có cao hơn?
- So với các nước trên thế giới, thuế suất các sắc thuế chính của Việt Nam đều đang ở mức thấp và tiếp tục có xu hướng giảm dần. Cụ thể, thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) từ mức thuế suất 32% năm 1999, giảm xuống 28% (năm 2004), giảm tiếp xuống 25% (năm 2009) và từ ngày 1-1-2014, thuế suất phổ thông thuế TNDN sẽ chỉ còn 22%. Nếu tính cả các mức thuế suất ưu đãi 10%, 20% (áp dụng cho một số đối tượng được hưởng ưu đãi) và các khoản miễn, giảm thuế thì thuế suất thuế TNDN ở Việt Nam chỉ khoảng 16,32%, trong khi mức thuế suất bình quân chung của 83 nước trên thế giới đang ở mức 27%. Riêng tại Philippines, Trung Quốc là 30%, Malaysia là 25%.
Với thuế giá trị gia tăng (GTGT), tại Việt Nam thuế suất phổ thông là 10% áp dụng cho hầu hết hàng hóa, dịch vụ. Mức 5% áp dụng cho một số hàng hóa, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp và mức 0% áp dụng cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu. So với 112 nước trên thế giới, có 88 nước có thuế suất thuế GTGT 12-25%, trong đó 57 nước có thuế suất 17-25%.
Về thuế thu nhập cá nhân (TNCN), giai đoạn 2001-2008 chỉ áp dụng với người có thu nhập cao với mức thuế suất lũy tiến từng phần 10-60%. Từ ngày 1-1-2009, khi áp dụng Luật Thuế TNCN, thuế suất đã giảm xuống mức 5-35%. Nhà nước chỉ tính thuế với phần thu nhập sau khi đã giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế (NNT) 4 triệu đồng/tháng và 1,6 triệu/tháng cho mỗi người phụ thuộc; giảm trừ đóng góp bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp bắt buộc. Mức giảm trừ gia cảnh kể từ ngày 1-7-2013 được nâng lên 9 triệu đồng cho NNT và 3,6 triệu đồng/người/ tháng cho mỗi người phụ thuộc, đồng nghĩa với tỷ lệ động viên từ thuế TNCN sẽ giảm theo.
- Như vậy, nguồn ngân sách tới đây sẽ giảm dần, điều này có ảnh hưởng tới "bài toán" cân đối thu - chi NSNN?
- Việc giảm dần thuế, phí trước mắt sẽ ảnh hưởng nhất định đến số thu NSNN, nhưng trong trung, dài hạn sẽ góp phần mở rộng nguồn thu, tăng thu NSNN. Từ nay đến năm 2020, hệ thống chính sách thuế sẽ tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện nhằm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu, đầu tư. Tỷ lệ huy động NSNN và động viên từ thuế, phí, lệ phí/GDP ở mức hợp lý sẽ tăng khả năng cạnh tranh, giúp tích tụ vốn cho DN phát triển sản xuất, kinh doanh. Đây chính là cơ sở bảo đảm chắc chắn nhất cho cân đối NSNN.
- Xin cảm ơn ông!
Trong 5 năm gần đây, vào những thời điểm kinh tế khó khăn, chính sách miễn, giãn, giảm thuế luôn được chọn là giải pháp hàng đầu để hỗ trợ DN. Năm 2012 đã có hơn 200.000 DN được gia hạn nộp thuế với tổng số tiền gần 10.000 tỷ đồng. Chính phủ cũng miễn thuế khoán, thuế môn bài cho 40.223 hộ; giảm tiền thuê đất cho hơn 3.000 DN sản xuất kinh doanh thương mại, dịch vụ với số tiền hơn 300 tỷ đồng… |
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.