(HNMO) - Sáng nay (9-6), Thành ủy Hà Nội đã tổ chức hội nghị tổng kết Chương trình số 08-CTr/TU của Thành ủy về
Tới dự có: đại diện lãnh đạo Bộ Nội vụ; Ủy viên trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Thế Thảo; Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Ngô Thị Thanh Hằng; Phó Bí Thành ủy, Chủ tịch HĐND thành phố, Trưởng ban chỉ đạo Chương trình 08 Nguyễn Thị Bích Ngọc; Phó Chủ tịch UBND thành phố, Phó Trưởng ban chỉ đạo Chương trình 08 Vũ Hồng Khanh… lãnh đạo các sở, ban, ngành của thành phố; lãnh đạo các quận, huyện, thị xã.
Các đại biểu dự Hội nghị. Ảnh: ĐH |
Ngay sau khi Thành ủy Hà Nội ban hành Chương trình số 08- CTr/TU, Ban Thường vụ Thành ủy đã thành lập Ban Chỉ đạo. Ban chỉ đạo đã ban hành Quy chế hoạt động, phân công trách nhiệm các thành viên Ban chỉ đạo, thành lập Tổ công tác giúp việc, ban hành Kế hoạch số 38-KH/BCĐ ngày 18/12/2011 về việc triển khai thực hiện chương trình. Hàng năm, Ban chỉ đạo rà soát, đánh giá và ban hành kế hoạch, trong đó giao một số nhiệm vụ, đề án cụ thể cho các cơ quan chuyên môn của thành phố, đồng thời đề ra những giải pháp để tổ chức thực hiện…
Qua 4 năm tổ chức, triển khai, thực hiện Chương trình số 08- CTr/TU của Thành ủy, công tác cải cách hành chính (CCHC) của Thành phố đã được thực hiện toàn diện cả 6 nội dung. Các nội dung, đề án giao cho các cơ quan, đơn vị về cơ bản đã hoàn thành theo kế hoạch đề ra, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.
Ban chỉ đạo Chương trình 08 đã tổ chức quán triệt tới các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và đoàn thể nhân dân tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền về CCHC, kịp thời tổ chức triển khai “Năm kỷ cương hành chính - 2013”, “năm trật tự và văn minh đô thị - 2014” nhằm tạo bước chuyển mạnh mẽ về nhận thức trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên và nhân dân. Từ đó, nâng cao kỷ cương, kỷ luật hành chính, ý thức trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với việc thực hiện CCHC tại các cơ quan đảng, chính quyền và đoàn thể thành phố. Công tác chỉ đạo điểm về CCHC tại 5 quận, huyện và 62 xã, phường, thị trấn đã được Thành phố thường xuyên quan tâm chỉ đạo và đạt được nhiều kết quả tiến bộ...
Chỉ số CCHC cấp tỉnh (PAR INDEX) của Thành phố được Bộ Nội vụ đánh giá đạt kết quả cao, thành phố Hà Nội luôn là một trong những địa phương dẫn đầu về CCHC (năm 2012 xếp thứ 7/63 tỉnh, thành phố; năm 2013 xếp thứ 5/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương). Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của thành phố Hà Nội đã có sự cải thiện đáng kể (năm 2013 tăng 18 bậc so với năm 2012, năm 2014 tăng 7 bậc so với năm 2013, thuộc nhóm địa phương có chất lượng điều hành khá).
Việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được các cơ quan thực hiện nghiêm túc, khẩn trương, đáp ứng các hoạt động về quản lý nhà nước; kịp thời tháo gỡ những khó khăn, tạo thuận lợi cho tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân. Công tác rà soát, hệ thống hóa, xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) được thực hiện thường xuyên, kịp thời và đi vào nền nếp. Thành phố đã chủ động ban hành quy định về trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản QPPL; xây dựng, triển khai kế hoạch ban hành văn bản QPPL hàng năm. Nhờ vậy, chất lượng các văn bản QPPL của thành phố đã được nâng cao.
Thành phố Hà Nội đã quyết liệt đẩy mạnh việc thực hiện phân cấp quản lý kinh tế-xã hội, giảm tải về công việc cho cấp thành phố, mở rộng quyền hạn của cơ sở, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị; tăng cường củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp; đồng thời thường xuyên rà soát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, kiện toàn tổ chức bộ máy của cơ quan hành chính và các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, hiệu quả và đúng quy định pháp luật…
Chủ tịch UBND TP Nguyễn Thế Thảo trao Bằng khen các tập thể. |
Bên cạnh đó, cải cách thủ tục hành chính (TTHC) có sự chuyển biến tích cực, số lượng TTHC được công bố, công khai đầy đủ theo quy định, việc giải quyết TTHC đảm bảo có chất lượng, kịp thời và theo đúng pháp luật. Hoạt động kiểm soát TTHC đạt kết quả tốt, TTHC được kiểm soát chặt chẽ, nhiều TTHC được đơn giản hóa. Việc thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông đã đi vào nề nếp theo hướng công khai, minh bạch, rõ ràng, rút ngắn thời gian, đơn giản hóa TTHC nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, công dân và doanh nghiệp; đặc biệt là các TTHC liên quan đến nhu cầu dân sinh, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với sự phục vụ của các cơ quan hành chính trong việc giải quyết các TTHC bước đầu có kết quả tích cực. Thành phố Hà Nội là địa phương tiên phong triển khai thực hiện Đề án “Thí điểm thực hiện cơ chế một cửa trong việc cung cấp dịch vụ công tại một số doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Thành phố”.
Những năm qua, công tác xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực thực hiện công vụ luôn được thành phố Hà Nội quan tâm, chỉ đạo. Công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ, công chức được thực hiện công khai, dân chủ đúng quy định, việc đổi mới có hiệu quả công tác thi tuyển công chức được dư luận ghi nhận, đánh giá cao. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tiếp tục được chuẩn hóa, có sự chuyển biến mạnh về đổi mới tư duy, phong cách làm việc, trách nhiệm và chất lượng phục vụ nhân dân được tốt hơn, góp phần từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp.
Cùng với đó, hạ tầng kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong các cơ quan nhà nước của thành phố đã mang lại hiệu quả thiết thực, việc ứng dụng CNTT phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của thành phố cũng như phục vụ nhân dân và doanh nghiệp đã đạt được những thành tựu và kết quả rõ nét. Thành phố Hà Nội tiếp tục tập trung triển khai các chương trình, kế hoạch phát triển và ứng dụng CNTT, bước đầu đạt được những thành công đáng ghi nhận, tạo nền tảng cơ bản cho tiến trình xây dựng chính quyền điện tử Thủ đô, đẩy mạnh CCHC và hướng tới “Một thành phố thông minh hơn”. Nhiều cơ quan, đơn vị đã xây dựng đề án “cơ quan điện tử” và đang tổ chức, triển khai thực hiện.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát được cấp ủy, chính quyền quan tâm, tổ chức thường xuyên, có chiều sâu, tập trung vào những vấn đề bức xúc của công dân, tổ chức và doanh nghiệp; chú trọng xử lý các vấn đề sau kiểm tra, tăng cường kiểm tra đột xuất không báo trước.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Ban chỉ đạo chương trình, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác CCHC có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của Thủ đô, đòi hỏi ngày càng cao của công dân, tổ chức và doanh nghiệp. Cụ thể: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ công tác CCHC của một số cấp ủy đảng chưa thực sự quyết liệt, còn thiếu những biện pháp để khắc phục hạn chế, khuyết điểm; cá biệt có nơi, có lúc còn coi đây là nhiệm vụ của chính quyền, việc quán triệt, tuyên truyền và chỉ đạo tổ chức thực hiện còn hạn chế. Công tác quản lý, điều hành ở một số lĩnh vực còn yếu kém, để xảy ra sai phạm, gây bức xúc trong nhân dân. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát ở một số cơ quan, đơn vị chưa được thực hiện thường xuyên.
Việc xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để khuyến khích, đẩy mạnh xã hội hóa và thu hút đầu tư còn chậm; phân cấp quản lý kinh tế - xã hội theo Quyết định số 12/2014/QĐ-UBND của UBND Thành phố triển khai chưa quyết liệt, chậm so với yêu cầu do một số sở, ngành mới cơ bản hoàn thành việc lập danh mục các công trình theo phân cấp, việc xây dựng cơ chế quản lý và phối hợp giữa ngành với cấp vẫn còn đang trong quá trình xây dựng và lấy ý kiến.
Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Ngô Thị Thanh Hằng trao Bằng khen cho các tập thể. |
Công tác tham mưu giúp UBND Thành phố ban hành kế hoạch công tác CCHC hàng năm liên quan đến lĩnh vực chuyên ngành còn chậm so với yêu cầu của Bộ Nội vụ, ảnh hưởng đến kết quả đánh giá chỉ số CCHC của Thành phố. Mặc dù chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Thành phố có nhiều cải thiện nhưng một số tiêu chí đánh giá còn thấp, chưa có sự chuyển biến đáng kể như: tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất, tính năng động và tiên phong của các cấp chính quyền, chi phí không chính thức, chi phí thời gian thực hiện các quy định của nhà nước, thiết chế pháp lý.
Việc đánh giá tác động TTHC trong dự thảo văn bản QPPL của một số cơ quan soạn thảo còn lúng túng, thậm chí còn chưa xác định được rõ có TTHC trong dự thảo. Số lượng các TTHC thực hiện theo cơ chế một cửa liên thông còn ít do các cơ quan chịu trách nhiệm chủ trì chưa xây dựng quy trình liên thông; một số sở, ngành có trách nhiệm phối hợp giải quyết TTHC cho doanh nghiệp, người dân theo cơ chế một cửa liên thông chưa thực hiện đúng trách nhiệm, chưa đặt mục đích cao nhất là lợi ích của người dân và doanh nghiệp trong quá trình phục vụ.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có nơi, có chỗ chưa đồng đều, còn yếu; nhất là năng lực phát hiện những vấn đề vướng mắc, tham mưu và đề xuất biện pháp giải quyết. Một số cán bộ, công chức khi giải quyết công việc liên quan đến tổ chức, công dân chưa làm hết trách nhiệm, chưa tận tình hướng dẫn để các tổ chức và công dân giải quyết theo quy định.
Thực hiện định mức khoán chi theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP của Chính phủ còn thấp nên ảnh hưởng tới việc tăng thu nhập của cán bộ, công chức, chưa thực sự khuyến khích, bảo đảm đời sống cán bộ, công chức. Việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ của một số cơ quan còn mang tính hình thức, chủ yếu do thủ trưởng cơ quan quyết định; quy chế chi trả thu nhập tăng thêm còn mang tính bình quân, chưa có cơ chế chi trả thu nhập tăng thêm theo kết quả, năng suất lao động nên chưa tạo được động lực cho mỗi cá nhân.
Việc nghiên cứu, xây dựng các văn bản quy định tiêu chí cụ thể để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và chất lượng hoạt động của đơn vị sự nghiệp theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ còn nhiều lúng túng; chưa có hệ thống đánh giá kết quả hoạt động thích hợp với đặc thù của từng ngành; việc phân bổ kinh phí hoạt động thường xuyên (đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí và đơn vị do NSNN bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động) còn mang tính bình quân, chưa thực sự gắn kết giữa giao nhiệm vụ và giao kinh phí; nên còn tình trạng trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của nhà nước và cũng là nguyên nhân làm chậm quá trình đẩy nhanh xã hội hóa đối với một số dịch vụ công.
Trụ sở làm việc của một số sở, ngành như Nội vụ, Tài chính, Y tế, Thanh tra Thành phố, Kế hoạch và Đầu tư (Bộ phận Đăng ký kinh doanh) và một số phường, thị trấn không đạt chuẩn diện tích, còn chật hẹp. Số lượng các xã, phường, thị trấn cần xây mới, cải tạo và sửa chữa theo kế hoạch còn nhiều (42 trụ sở). Một số phường, xã chưa được cấp chứng chỉ hoặc chưa tự công bố phù hợp tiêu chuẩn ISO 9001: 2008. Hiệu quả sử dụng trang thiết bị CNTT có nơi, có chỗ còn hạn chế. Một số phần mềm quản lý chuyên ngành còn thiếu, đặc biệt là các phần mềm dùng chung được Thành phố chuyển giao tại một số đơn vị sử dụng chưa hiệu quả.
Sở dĩ còn những hạn chế trên là có những nguyên nhân khách quan. Trước hết, cải cách hành chính là công việc khó khăn, phức tạp; liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức và người dân; đòi hỏi thường xuyên phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Bên cạnh đó, do tình hình kinh tế suy giảm, ngân sách thành phố gặp nhiều khó khăn, nguồn thu thấp. Mặt khác, thành phố phải tập trung thực hiện nhiều nhiệm vụ chi phần nào ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch đầu tư nâng cấp trụ sở, trang thiết bị, ứng dụng CNTT phục vụ cho các nhiệm vụ CCHC của Thành phố.
Các văn bản QPPL có quy định về TTHC của các bộ, ngành trung ương quá nhiều, quy định rườm rà, nhiều loại thủ tục, giấy tờ (như lĩnh vực giao thông, nông nghiệp và PTNT...) nên việc công bố TTHC gặp nhiều khó khăn.
Một số bộ, ngành trung uơng quản lý ngành, lĩnh vực chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với các đơn vị sự nghiệp thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, ngành theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ; do đó chưa đồng bộ với cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính.
Về nguyên nhân chủ quan: Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy Đảng còn hạn chế, thiếu quyết liệt, chưa thực sự coi công tác CCHC là nhiệm vụ trọng tâm và khâu đột phá. Công tác thông tin, tuyên truyền, quán triệt về CCHC có nơi, có chỗ thực hiện chưa thường xuyên, hiệu quả thấp.
Việc thực hiện kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, chính quyền, đặc biệt là việc kiểm tra, hướng dẫn các cơ quan chuyên môn thực hiện chức năng quản lý nhà nước chưa thường xuyên, sâu sát và toàn diện. Sự phối hợp giữa các sở, ngành trong giải quyết TTHC liên thông có nơi làm chưa tốt.
Người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm chỉ đạo CCHC, còn mang tính hình thức, thậm chí có nơi còn khoán trắng cho cấp phó hoặc cơ quan chuyên môn. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý trình độ, năng lực chưa đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ.
Sự phối hợp trong công tác chỉ đạo giữa các Ban Chỉ đạo của Thành phố (về CCHC, CNTT, ISO, cải cách chế độ công vụ, công chức) còn hạn chế, nên việc chỉ đạo và đầu tư các nguồn lực cho cơ sở không đồng bộ, chưa thống nhất, chưa hiệu quả ảnh hưởng đến công tác tổ chức thực hiện của cơ sở.
Nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức về những yêu cầu mới đặt ra đối với công tác CCHC chưa đầy đủ, còn đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, nhất là những việc khó, nổi cộm, bức xúc; một số cán bộ, công chức khi giải quyết TTHC liên quan đến tổ chức, công dân chưa làm hết trách nhiệm. Năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng đều, có nơi, có chỗ còn yếu; việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với các trường hợp sai phạm còn thiếu kiên quyết. Công chức làm nhiệm vụ CCHC chưa được quan tâm đúng mức, tính ổn định thấp.
Sau 4 năm thực hiện Chương trình 08, Thành ủy Hà Nội đã rút ra một số bài học kinh nghiệm. Đó là: Thường xuyên tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ có hiệu quả giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, giữa cấp ủy đảng và chính quyền trong việc thực hiện các nhiệm vụ của Chương trình số 08-CTr/TU là nhân tố quan trọng, quyết định sự thành công của CCHC. Đồng thời, có sự phối hợp giữa Chương trình số 08-CTr/TU và các Chương trình công tác khác của thành phố, tiếp tục thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Các cấp, các ngành cần nhận thức đầy đủ, xác định rõ công tác CCHC là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, và là một trong những khâu đột phá của thành phố, có ý nghĩa quan trọng tác động đến nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội của Thành phố.
Xác định các mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm bám sát tư tưởng chỉ đạo của trung ương và Thành ủy; đảm bảo mức độ phù hợp với tình hình thực tiễn; coi trọng công tác thí điểm trong triển khai CCHC. Hàng năm, định kỳ tổ chức sơ kết đánh giá thực hiện chương trình, đề án, kế hoạch để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để tổng kết thực tiễn; thực hiện tốt chế độ báo cáo thống kê theo quy định.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và hướng dẫn các cơ quan chuyên môn thực hiện công tác CCHC, trong đó cần đánh giá, biểu dương những cơ quan, đơn vị, cá nhân thực hiện tốt và kiên quyết xử lý nghiêm các cá nhân, đơn vị vi phạm các quy định, nhiệm vụ được giao. Tăng cường và phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với công tác CCHC của thành phố.
Chủ tịch UBND TP Nguyễn Thế Thảo phát biểu kết luận hội nghị. |
Phát biểu kết luận hội nghị tổng kết, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội nhấn mạnh: Từ nay đến hết nhiệm kỳ cần tập trung chỉ đạo quyết liệt cấp ủy một số đơn vị khẩn trương hoàn thành một số nhiệm vụ, chỉ tiêu đã đề ra tại Chương trình số 08-CTr/TU của Thành ủy; Kế hoạch số 38-KH/BCĐ của Ban Chỉ đạo và Quyết định số 1909/QĐ-UBND của UBND Thành phố đảm bảo chất lượng, hiệu quả; đồng thời triển khai tổ chức thực hiện Kế hoạch số 210/KH-UBND ngày 17/12/2014 của UBND thành phố về công tác CCHC năm 2015. Phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ của Kế hoạch 5 năm 2011-2015.
Bên cạnh đó, CCHC tiếp tục được xác định là một trong ba khâu đột phá của thành phố trong giai đoạn 2015 – 2020, trong đó tập trung đẩy mạnh CCHC, trọng tâm là tạo bước chuyển biến mạnh về kỷ luật, kỷ cương, ý thức, trách nhiệm, chất lượng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy, nâng cao hiệu quả đầu tư và sản xuất kinh doanh trên địa bàn Thủ đô.
Ban chỉ đao Chương trình 08 đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể khác. Đó là: Xây dựng chương trình, kế hoạch CCHC của thành phố giai đoạn 2016-2020 theo sự chỉ đạo của Chính phủ và Thành ủy Hà Nội; triển khai thực hiện các mục tiêu giai đoạn 2 (2016-2020) theo Nghị quyết 30c/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2020, tập trung vào các nội dung sau: Đổi mới công tác theo dõi, đánh giá CCHC theo hướng dựa trên kết quả, tổ chức triển khai Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá CCHC ở các sở, cấp huyện, cấp xã. Quy định kết quả CCHC là tiêu chí để đánh giá công tác thi đua, khen thưởng và bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức.
Xây dựng các cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi theo hướng minh bạch, thông thoáng, phù hợp với các luật, nghị định mới ban hành và yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để thực hiện hiệu quả Luật Thủ đô nhằm phát huy mọi nguồn lực phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; các quy định pháp luật về xã hội hóa, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ công trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế, đầu tư, xây dựng.
Triển khai xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Kế hoạch đầu tư trung hạn 5 năm 2016-2020 có chất lượng. Xây dựng đề án phân cấp quản lý kinh tế - xã hội gắn với phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách giai đoạn 2016-2020.
Phân cấp mạnh hơn nữa quản lý kinh tế - xã hội, gắn với phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi; chú trọng hướng dẫn, kiểm tra, giám sát sau phân cấp. Kiện toàn tổ chức bộ máy các sở và các phòng chuyên môn thuộc UBND quận, huyện, thị xã theo Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/04/2014 và Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/05/2014 của Chính phủ.
Nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công; tiếp tục triển khai có hiệu quả cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông theo hướng hiện đại; tiếp tục rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa, giảm chi phí thực hiện các TTHC; công khai, minh bạch các TTHC nhằm cải thiện môi trường đầu tư, trọng tâm là các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống, sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả việc thí điểm thực hiện cơ chế một cửa trong việc cung cấp dịch vụ công tại một số doanh nghiệp nhà nước và đơn vi sự nghiệp công lập thuộc thành phố để tiếp tục nhân rộng mô hình.
Quán triệt Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Thông báo số 117/TB-VPCP ngày 06/4/2015 về Kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị trực tuyến về đẩy mạnh CCHC và cải cách chế độ công vụ, công chức; tổ chức triển khai Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 về chính sách tinh giản biên chế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức; đổi mới công tác tuyển dụng bằng các hình thức phù hợp, có hiệu quả, đảm bảo số lượng, cơ cấu hợp lý, có đạo đức nghề nghiệp, đủ trình độ và năng lực thực thi nhiệm vụ; triển khai kế hoạch thi tuyển một số chức danh lãnh đạo, quản lý; nhân rộng phương thức thi tuyển công chức, viên chức qua phần mềm máy tính. Phấn đấu 100% các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp có cơ cấu công chức, viên chức theo vị trí việc làm.
Nghiên cứu xây dựng, tổ chức thực hiện các đề án về: đào tạo cán bộ nguồn thành phố; đào tạo cán bộ nguồn lãnh đạo, quản lý chuyên ngành thành phố; đào tạo, tuyển dụng công chức nguồn giai đoạn 2016-2020. Kết hợp công tác đào tạo, bồi dưỡng với bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm; thực hiện công tác luân chuyển cán bộ, công chức để rèn luyện và trưởng thành. Đổi mới việc đánh giá, phân loại, khen thưởng, kỷ luật theo các tiêu chí cụ thể, gắn với chất lượng, hiệu quả công việc. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ; kịp thời động viên, khen thưởng những cá nhân, đơn vị thực hiện tốt; kiên quyết xử lý những đơn vị, cá nhân vi phạm.
Thực hiện triệt để các giải pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; quản lý, điều hành chi ngân sách chặt chẽ, khoa học, hiệu quả. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và tổ chức triển khai thực hiện đề án xây dựng cơ chế hỗ trợ, đãi ngộ để tăng thu nhập (ngoài lương) bảo đảm ổn định đời sống cán bộ, công chức, viên chức. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp công lập, xã hội hóa dịch vụ công theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ.
Tiếp tục đổi mới phương thức và lề lối làm việc của cán bộ, công chức, viên chức. Giảm mạnh hội họp và giấy tờ hành chính, mở rộng việc giao ban, họp trực tuyến. Triển khai Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09-01-2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. Tiếp tục đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành và giải quyết thủ tục hành chính, thực hiện các dự án về CNTT, tăng số lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 (phấn đấu đến năm 2020, các cơ quan nhà nước thành phố cung cấp các dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 3, 4 đạt tỷ lệ 50%).
Nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác CCHC; đồng thời có chế độ đãi ngộ, chính sách hợp lý đối với cán bộ, công chức chuyên trách làm công tác CCHC ở các sở, cấp huyện, cấp xã.
Nhân dịp này, Thành ủy Hà Nội đã tặng Bằng khen cho 25 tập thể, cá nhân; UBND TP tặng Bằng khen cho 32 cá nhân và tập thể có thành tích xuất sắc trong thực hiện Chương trình 08.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.