Cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu và đường Vành đai 3 qua tỉnh Đồng Nai cần đến 6 triệu m3 vật liệu đắp nền, nhưng Đồng Nai hiện chỉ đáp ứng được 1,7 triệu m3.
Nhiều khó khăn
Để phục vụ 2 dự án trọng điểm quốc gia trên, cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai đã tiến hành khảo sát nguồn cung vật liệu làm đường trên địa bàn tại 7 điểm mỏ. Kết quả là hiện chỉ có 2 mỏ thương mại đang khai thác đá là mỏ Tân Cang 7 và mỏ Núi Nứa với tổng trữ lượng còn lại khoảng 1,7 triệu m3 là có thể sử dụng được. Trong khi đó riêng trong giai đoạn 1, dự án cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu đang cần đến khoảng 5,7 triệu m3 vật liệu làm đường.
Theo Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai, mỏ đá Tân Cang 7 đã khai thác từ năm 2010 và được cấp phép khai thác tới độ sâu 80m để tận dụng tối đa trữ lượng vật liệu mỏ. Mỏ Núi Nứa đang trong giai đoạn xin giấy phép thăm dò, giấy phép khai thác độ sâu 80m để tăng năng lực khai thác mỏ. Thông tin này cũng phần nào phản ánh thực trạng thiếu vật liệu xây dựng nói chung và làm đường nói riêng tại Đồng Nai.
Cũng theo Sở Tài nguyên và Môi trường, việc thiếu vật liệu làm đường đã từng xảy ra với cao tốc Dầu Giây – Phan Thiết (được xây dựng từ tháng 9-2020, mới đi vào hoạt động dịp 30-4 vừa qua).
Khi đó, trước nhu cầu cấp thiết cần ít nhất 2,9 triệu m3 đất đắp đường, UBND tỉnh Đồng Nai đã chấp thuận cho doanh nghiệp thực hiện 4 dự án cải tạo đất nông nghiệp kết hợp thu hồi đất san lấp (hạ cốt nền) tại các huyện Cẩm Mỹ và Xuân Lộc, để có đủ nguyên vật liệu làm đường.
Cách làm trên là nhanh nhất, bởi thủ tục làm dự án nhanh hơn quy trình cấp quyền khai thác mỏ vật liệu. Tuy nhiên, hiện tỉnh Đồng Nai đang phải xử lý hậu quả không mong muốn tại một số mỏ này, khi đơn vị khai thác không tuân thủ việc thu hồi đất, cải tạo đất theo phương án đã được UBND tỉnh chấp thuận; không phân tầng khai thác; khai thác tạo mái dốc không đúng; không thu gom đất mặt hoàn thổ…
Thực tế trên dẫn đến nguy cơ gây mất an toàn, ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản và tính mạng người dân cũng như mất an toàn cho người và phương tiện thi công ở khu vực, nhất là thời điểm đang giữa mùa mưa bão. Cùng với đó, tạo “tiền lệ xấu” khiến Đồng Nai phải rất cân nhắc trước khi quyết định có dùng cách thức cũ để cung ứng vật liệu cho các dự án giao thông mới hay không.
Việc thiếu đất đắp đường nan giải đến mức đơn vị thực hiện dự án đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu (đoạn do Bộ Giao thông – Vận tải thực hiện qua tỉnh Đồng Nai) đã phải đề xuất chủ đầu tư dự án sân bay Long Thành cho dùng một phần trong tổng số 115 triệu m3 đất đào đắp tại dự án này chuyển sang đắp đường cao tốc. Tuy nhiên, Tổng côn ty Hàng không Việt Nam đã trả lời đất bóc chỗ cao được lấp xuống chỗ thấp giai đoạn 1 là vừa đủ. Đến giao đoạn 2, thậm chí dự án còn thiếu hơn 1 triệu m3 đất san nền.
Tìm hướng giải quyết
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai thông tin, ngoài các dự án giao thông trọng điểm quốc gia, tỉnh còn triển khai nhiều dự án giao thông khác. Để có nguồn cung vật liệu, tỉnh đã quy hoạch và khoanh định 95 khu vực với diện tích hơn 500ha không đấu giá quyền khai thác khoáng sản vật liệu san lấp.
Theo Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai Nguyễn Ngọc Hưng, việc mời gọi nhà đầu tư vào khai thác không dễ, vì quá trình làm thủ tục cấp phép mỏ rất phức tạp, kéo dài; thời gian khai thác mỏ ngắn (chỉ phục vụ các dự án trọng điểm), nên lợi nhuận không hấp dẫn.
Trước những kiến nghị tháo gỡ khó khăn không chỉ của riêng Đồng Nai, mà còn của nhiều tỉnh, thành trên cả nước đang triển khai các dự án giao thông lớn, cuối tháng 7 vừa qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Văn bản số 4776/BTNMT-KSVN gửi 37 địa phương trên cả nước, hướng dẫn khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường phục vụ các dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc được áp dụng cơ chế đặc thù.
Theo đó, Bộ hướng dẫn thủ tục xác nhận khu vực, khối lượng, công suất, kế hoạch khai thác; bảo vệ môi trường; khảo sát, thăm dò đánh giá trữ lượng; xác định chi phí cấp quyền khai thác; chi phí đánh giá tiềm năng khoáng sản, thăm dò khoáng sản; thu hồi, sử dụng đất.
Tuy nhiên, Chính phủ chỉ cho phép thực hiện quy định “đặc thù” này trong các năm 2022- 2023 để làm đường. Nếu các địa phương có dự án không khẩn trương giải quyết những vấn đề còn lại thuộc thẩm quyền của mình để có thêm mỏ mới cung ứng vật liệu làm đường, sẽ rất khó khắc phục tình trạng thiếu hụt như hiện nay.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.