Ngày 21-7-2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1208/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030 (gọi tắt là TSĐ VII).
Đứng thứ 3 ASEAN và thứ 31 trên thế giới
Giai đoạn 2010-2015, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã tập trung mọi nguồn lực vào đầu tư, phát triển các nhà máy điện, lưới điện với tổng vốn đầu tư là 479.620 tỷ đồng, gấp 2,37 lần so với giai đoạn 2006-2010.
Theo đó, EVN đưa vào vận hành 34 tổ máy với tổng công suất 9.852MW, bằng 125% so với Quy hoạch điện VII điều chỉnh; khởi công 10 dự án nguồn điện với tổng công suất 5.629MW. Đặc biệt, công trình Thủy điện Sơn La lớn nhất Đông Nam Á công suất 2.400MW vượt tiến độ 3 năm, đem lại hiệu quả kinh tế lớn cho đất nước. Các dự án nguồn điện cấp bách miền Nam như Nhiệt điện Vĩnh Tân 2, Nhiệt điện Duyên Hải 1 về đích đúng thời hạn, góp phần bảo đảm cung ứng điện cho miền Nam.
EVN cũng hoàn thành đóng điện 865 công trình lưới điện 110-500kV với tổng chiều dài đường dây hơn 13.360km, tổng công suất các trạm biến áp gần 61.000MVA, bảo đảm tăng năng lực truyền tải của toàn hệ thống, đưa vào vận hành các công trình nâng khả năng truyền tải Bắc - Nam: đường dây 500kV Pleiku - Mỹ Phước - Cầu Bông, đường dây 220kV Đắk Nông - Phước Long - Bình Long; thay thế tụ bù dọc nhằm nâng cao khả năng tải cho cả 2 mạch đường dây 500kV Bắc - Nam...
Để bảo đảm cung ứng đủ điện cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước, trong giai đoạn 2010-2015, EVN đã đầu tư 487.220 tỷ đồng để phát triển mở rộng hệ thống điện Quốc gia và hiện đứng thứ 3 trong các nước ASEAN, thứ 31 trên thế giới xét về quy mô.
Trong đó, EVN đã hoàn thành đưa vào phát điện 34 tổ máy thuộc 17 dự án với tổng công suất 9.852MW, bằng 125% so với Quy hoạch điện VII được duyệt. Những công trình như thủy điện Sơn La, Lai Châu… khi đi vào vận hành, phát điện đã không chỉ giải quyết nhu cầu cấp thiết về điện năng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cho khu vực Tây Bắc mà còn tham gia trị thủy, điều tiết lưu lượng nước cho vùng hạ du, cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp vào mùa khô, hạn chế lũ lụt vào mùa mưa.
Đồng bộ với các công trình nguồn điện, EVN đã hoàn thành đóng điện 885 công trình lưới điện từ 110-500kV, với tổng chiều dài đường dây hơn 12.500km và tổng dung lượng trạm biến áp tăng thêm gần 60.000MVA, bảo đảm đấu nối, truyền tải công suất phát các nguồn điện, tăng cường năng lực truyền tải của toàn hệ thống, đã kết nối khép kín mạch vòng 500kV tại các khu kinh tế trọng điểm miền Bắc, miền Nam và kết nối ở cấp điện áp 500kV lưới điện Đông Nam bộ với Tây Nam bộ và khả năng cung ứng điện của lưới điện tại nhiều khu vực.
Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến được triển khai sâu rộng, bám sát chiến lược phát triển công nghệ điện lực của EVN đến năm 2015, định hướng đến năm 2025. Lưới điện truyền tải và phân phối được đầu tư và ứng dụng công nghệ hiện đại để nâng cao độ tin cậy cung cấp điện và giảm tổn thất điện năng, như ứng dụng thiết bị điện tử công suất (SVC); áp dụng công nghệ chẩn đoán trạng thái thiết bị: kiểm tra phóng điện cục bộ MBA 220-500kV; giám sát dầu online tại trạm biến áp 500kV; vệ sinh cách điện trên lưới điện đang mang điện bằng nước áp lực cao; sửa chữa lưới điện không cần cắt điện...
Bên cạnh những ứng dụng khoa học công nghệ nêu trên, việc đưa vào vận hành Trung tâm Điều khiển hệ thống điện và thị trường điện mới vừa qua góp phần khẳng định những bước đi chắc chắn trong đầu tư ứng dụng công nghệ cao, hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tế hệ thống điện Việt Nam của Tập đoàn EVN.
Tính đến cuối năm 2015, cả nước có 100% số huyện có điện lưới và điện tại chỗ; 99,8% số xã với 98,76% số hộ dân nông thôn có điện lưới, vượt 0,76% so với chỉ tiêu được giao cuối năm 2015. Tại các vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, hầu hết nhân dân ở các khu vực này đã được sử dụng điện: Khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc đạt 96,62% về số xã và 83,76% số hộ dân nông thôn có điện; khu vực các tỉnh Tây Nguyên là 99,83% và 95,8%; khu vực Tây Nam bộ là 98,85% và 97,27%.
Giữ vững khả năng cân đối tài chính
Để triển khai nhiệm vụ tại TSĐ VII, Bộ Công Thương đang chủ trì phối hợp với các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính xem xét, phê duyệt đề án huy động vốn cho đầu tư và phát triển của EVN giai đoạn 2015-2020. Ngoài việc hỗ trợ về cơ chế, chính sách, kiến nghị Chính phủ bảo lãnh vay vốn nước ngoài, Bộ Công Thương đã chỉ đạo EVN thực hiện đa dạng hình thức huy động các nguồn lực trong nước và quốc tế để đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho đầu tư nguồn và lưới điện; tranh thủ nguồn vốn tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của nước ngoài thông qua việc đấu thầu cung cấp thiết bị hoặc đấu thầu EPC; huy động vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu trong nước và phát hành trái phiếu quốc tế.
Bên cạnh đó, EVN tích cực chủ động và đa dạng hóa nguồn vốn huy động, nên vào những thời điểm tăng giá điện không được thực hiện, EVN đã không bị rơi vào tình trạng mất khả năng cân đối tài chính. Trong giai đoạn 2016-2020, dự kiến nhu cầu vốn đầu tư của EVN khoảng 720.576 tỷ đồng.
Số liệu nợ phải trả, vốn chủ sở hữu của EVN tại thời điểm 31-12-2017 của Công ty mẹ EVN: Nợ phải trả là 310.039 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu 204.203 tỷ đồng, hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu là 1,52; hợp nhất EVN, nợ phải trả 489.131 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu 212.448 tỷ đồng và hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu là 2,30.
Năm 2017, với tổng tài sản vượt ngưỡng 700.000 tỷ đồng, EVN trở thành tập đoàn có quy mô lớn thứ hai tại Việt Nam, chỉ sau Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) và 9 tổng công ty thành viên đều có lợi nhuận; năng suất lao động sản xuất kinh doanh điện toàn EVN đạt 1,92 triệu kWh/người, tăng 9% so với năm 2016.
EVN bảo toàn và phát triển được vốn nhà nước, tổng giá trị tài sản hợp nhất ước tính đến cuối năm 2017 là 707.270 tỷ đồng (tăng 15.053 tỷ đồng so với năm 2016), trong đó vốn chủ sở hữu là 216.510 tỷ đồng (tăng 11.275 tỷ đồng).
Theo công bố xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2017 của Công ty cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) năm nay, EVN vươn lên đứng thứ 2 trong Bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (VNR500), tăng 2 bậc so với năm 2016. Đây là lần thứ 10 liên tiếp EVN lọt vào top 10 doanh nghiệp dẫn đầu trong danh sách này.
Ngoài Công ty mẹ - EVN, còn có 8 tổng công ty, công ty con, công ty cổ phần thuộc EVN nằm trong Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2017. VNR500 đánh giá thứ hạng doanh nghiệp dựa trên tiêu chí cơ bản là tổng doanh thu. Bên cạnh đó, các tiêu chí như lợi nhuận, tốc độ tăng trưởng, lao động, tài sản và uy tín truyền thông cũng được sử dụng như các nhân tố bổ sung góp phần tạo nên vị thế xứng tầm doanh nghiệp lớn.
Những bước chuyển mình
Trong mọi hoàn cảnh, EVN luôn được cấp có thẩm quyền đánh giá cao việc thực hiện nhiệm vụ cung ứng đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là sự ghi nhận xứng đáng về nỗ lực của Tập đoàn trong suốt chặng đường dài, đặc biệt là trong 5 năm gần đây.
Năm 2017, EVN đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ và toàn diện. Đơn cử, chỉ số tiếp cận điện năng của EVN tăng 32 bậc so với năm 2016. Đây là sự tăng trưởng vượt bậc, được cộng đồng đánh giá cao, góp phần quan trọng vào việc cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam trong năm; các chỉ tiêu về độ tin cậy cung cấp điện, giảm tổn thất điện năng, nâng cao năng suất lao động… đều đạt và vượt kế hoạch.
Đặc biệt, năng suất lao động của EVN, theo con số của Tổng cục Thống kê, cao hơn bình quân chung của xã hội 10 lần; bảo toàn và phát triển nguồn vốn. Với doanh thu đạt hơn 293.000 tỷ đồng, năm 2017 EVN lần đầu tiên đạt tới vị trí thứ 2 trong bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam; thực hiện tốt nhiệm vụ tái cơ cấu theo Quyết định 852 của Thủ tướng Chính phủ; trong đó thoái, giảm vốn ở các lĩnh vực không phải lợi thế của EVN; tiến hành CPH theo đúng chủ trương của Chính phủ…
Năm 2018, EVN đã, đang từng bước triển khai 5 giải pháp, nhiệm vụ then chốt gồm: Đáp ứng đủ điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; trong đó, phải bảo đảm vận hành hiệu quả nguồn và lưới hiện có, tránh tình trạng xảy ra các sự cố kéo dài, gây gián đoạn cung cấp điện; đưa vào vận hành các dự án nguồn và lưới đúng kế hoạch trong năm 2018; bảo đảm hiệu quả sản xuất, kinh doanh và lành mạnh tài chính, tăng năng suất lao động, bảo đảm hiệu quả chung cho Tập đoàn và các đơn vị, trong đó có định mức tiết giảm 7,5% theo chỉ đạo của Chính phủ; tập trung thực hiện Nghị quyết 01 của Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành ngày 1-1-2018.
Tập đoàn cũng sẽ sớm ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 01 của Thủ tướng, trong đó tập trung vào những đột phá: Hoàn thiện thể chế; xây dựng hạ tầng để bảo đảm vận hành an toàn, ổn định, hiệu quả; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực - đây cũng là chủ đề năm 2018; đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ.
Những thành quả của năm 2017 sẽ là tiền đề để EVN tiếp tục đẩy mạnh công tác này trong thời gian tới; chủ động tìm nguồn năng lượng sơ cấp, thay thế cho các nguồn đang dần cạn kiệt, nhằm đáp ứng nhu cầu phát điện, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.