Hơn nửa thế kỷ trước quán triệt đường lối kháng chiến của Đảng, các nhà văn còn đang lúng túng với việc “nhận đường” thì, sân khấu đã có ngay vở kịch “Bắc Sơn” 1946 của Nguyễn Huy Tưởng. Điều này khẳng định vai trò xung kích của kịch nói trong việc nhanh nhạy tiếp cận hiện thực mới-hiện thực chiến tranh cách mạng. “Bắc Sơn” đã phản ánh khí thế tưng bừng sôi nổi của những ngày đầu cách mạng thành công. Lần đầu tiên kịch đưa lên sân khấu những quần chúng lao động với tất cả tấm lòng yêu thương trân trọng...
Có thể nói “Bắc Sơn”là vở kịch mở đầu cho sự hình thành kịch cách mạng, kịch về đề tài chiến tranh với phương pháp sáng tác hiện thực. Cùng mang âm hưởng của không khí cách mạng trong những ngày Tổng khởi nghĩa, Thế Lữ đã bắt tay soạn ngay vở “Cụ Đạo sư ông”,vở kịch ngợi ca các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia đánh giặc. Thâm Tâm đã viết vở kịch nói “19 tháng 8”phản ánh không khí sôi nổi của cuộc khởi nghĩa Mười chín tháng Tám. Sau tiếng reo vui đón chào cách mạng, kịch nói bắt tay ngay vào việc tuyên truyền đường lối kháng chiến của Đảng. Đề tài chiến tranh cách mạng ở địch hậu hay còn gọi là đề tài địch vận đã trở thành dòng chính, thu hút các nhà viết kịch trong thời kỳ này.
Tác giả Nguyễn Văn Xe có vở “Lòng dân”(1948), Đoàn Phú Tứ-Lê Ngọc Cầu viết chung vở “Trở về”;Trúc Lâm có vở “Lớp học vùng Tề”,Học Phi có vở “Ngày mai”,Lộng Chương có vở “Chiến đấu trong lòng địch”(1948), Đình Quang có vở “Khăn tang kháng chiến”(1949), Lộng Chương có vở “Du kích thôn đồi”...Những vở kịch về đề tài địch vận đã phản ánh nhiều mặt khác nhau của hiện thực đời sống kháng chiến chống Pháp ở vùng sau lưng địch, nơi những người chiến sĩ và đồng bào ta sống chiến đấu, lao động, học tập và đấu tranh với những âm mưu thủ đoạn dã man của kẻ thù.
Tiêu biểu cho mảng đề tài này là vở “Chị Nhàn”(năm 1961) được Đào Hồng Cẩm viết 7 năm sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bên cạnh mảng đề tài địchhậu, kịch nói còn có vở: “Những người ở lại”của Nguyễn Huy Tưởng, “Trên Nớ”của Bửu Tiến, thuộc về đề tài “đi-ở” (ra đi theo kháng chiến hay ở lại vùng Tề). Tiếp đó là các vở “Anh Sơ đầu quân”của Nguyễn Huy Tưởng, thuộc đề tài lên đường tòng quân và các vở “Chị Hòa”của Học Phi, “Thúng thóc”sáng tác tập thể, thuộc đề tài cải cách ruộng đất. Đáng lưu ý nhất là kịch về đề tài thiếu nhi với vở “Lửa cháy lên rồi”Phan Vũ, kịch phản ánh hiện thực đấu tranh quyết liệt của đồng bào miền Nam với chế độ độc tài phát xít Mỹ-Diệm. Lòng căm thù giặc đã cháy thành cây đuốc sống gắn liền với hình tượng người anhhùng nhỏ tuổi Lê Văn Tám.
Chỉ trong vòng 9 năm kháng chiến mà sân khấu kịch nói với đề tài chiến tranh cách mạng đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội chiến tranh, đồng thời nó còn khẳng định sức sống và hướng đi đúng đắn của mảng đề tài chiến tranh trong tiến trình văn học dân tộc nói chung, đặt nền móng cho nền văn học hiện đại và nền văn học cách mạng nói riêng, trong đó có sân khấu kịch nói về đề tài chiến tranh cách mạng.
Bước vào thời kỳ chống Mỹ cứu nước, miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành hậu phương của cả nước. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. ở mảng đề tài đấu tranh của đồng bào miền Nam thống nhất đất nước được mở đầu bằng một số hài kịch đả kích kẻ thù: “Nghị hụt”của Đào Hồng Cẩm, “Bức ảnh”của Nguyễn Văn Niên, “Gieo gió gặt bão”của Nguyễn Vượng; “Viên quận trưởng”của Chu Nghi đều xoáy sâu vào tình huống sống dở chết dở của mấy tên tay sai hầu hạ Mỹ, thực hiện chính sách trụy lạc hóa thanh niên thì cuối cùng vợ con chúng lại là nạn nhân của cái chính sách đó.
Tiếp đó là các vở kịch về đề tài miền Nam thống nhất đất nước do những người con miền Nam tập kết viết hay nhiều tác giả miền Bắc chấp bút, đều toát lên hiện thực khốc liệt mà nhân dân miền Nam phải chịu đựng:“Trận chiến đấu thầm lặng”và “Đâu có giặc là ta cứ đi”của Ngô Y Linh, “Người ven đô”của Minh Khoa, “Người vợ miền Nam”của Phạm Ngọc Truyền, “Nổi gió”của Đào Hồng Cẩm... đây là những dòng chảy tiếp nối những vở kịch về đề tài chiến tranh cách mạng đã được khơi nguồn từ thời chống Pháp. Có điều, xung đột kịch ở những vở kịch này đã được đẩy cao cùng với tính chất sống còn của cách mạng miền Nam.
Hiện thực lớn lao của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã vừa là nguồn chất liệu đông đặc, vô giá cho kịch, vừa là nguồn cảm hứng sáng tạo thôi thúc các nhà viết kịch. Đề tài chiến tranh cách mạng đúng như một thỏi nam châm lớn, thu hút vào nó cả ở phía người sáng tạo và phía người thưởng thức.
Mở đầu bằng một loạt kịch ngắn: “Đâu có giặc là ta cứ đi”, “Ngọn lửa”của Nguyễn Vũ; “Bà mẹ và những đứa con”của Xuân Trình; “Góp phần chiến thắng”của Huỳnh Chinh; “Tay súng dân quân”, “Em bé giao liên”, “Lưới thép”của Nguyễn Vượng; “Một vùng trời”của Tất Đạt; “Sẵn sàng”của Thanh Hương; “Ông cháu”, “Trang sổ tay chiến sĩ”của Đào Hồng Cẩm; “Chiếc va ly khủng khiếp”của Hoài Giao; “Qua làng”của Chu Nghi; “Trận địa”của Xuân Đức. Với đặc điểm đáng quý của thể loại kịch ngắn là phản ánh cuộc sống một cách nhanh nhạy, kịp thời và tươi rói chất hiện thực.
Cũng ở thời kỳ này một số vở dài đã cố gắng phản ánh hiện thực với một khung cảnh rộng lớn hơn, có chiều sâu hơn so với kịch ngắn và đã bước đầu thành công. “Lửa hậu phương”của Kính Dân, “Bức tranh mùa gặt”của Trần Vượng, “Anh Trỗi”(Lưu Trọng Lư, Đình Quang, Vũ Khiêu), “Tiền tuyến gọi”(Trần Quán Anh), “Đồng chí”, “Bên hàng rào Tà Cơn”(Chu Nghi), “Đôi mắt”và “Nhật ký người mẹ”của Vũ Dũng Minh...
Rõ ràng là đề tài chiến tranh cách mạng đã chiếm được ưu thế đỉnh cao của mình trong lịch sử kịch nói hiện đại. Đặc biệt là từ mảng đề tài này, một đội ngũ những nhà viết kịch mặc áo lính đã trưởng thành, tên tuổi của Vũ Dũng Minh, Nguyễn Vượng, Hoài Giao, Sỹ Hanh, Xuân Đức, Chu Nghi, Nguyễn Vũ (tức Ngô Y Linh), Đào Hồng Cẩm... đã trở nên quen thuộc với khán giả cả nước.
Nói về sân khấu giai đoạn chống Mỹ, không thể không nhắc đến Đào Hồng Cẩm với vở kịch nổi tiếng “Đại đội trưởng của tôi”,hiện thực phản ánh của vở là một trận địa chốt. Nhưng vấn đề của kịch đã vượt ra khỏi khuôn khổ một trường hợp, một đơn vị, một chiến trường để trở thành một vấn đề chung. Vở kịch nóng bỏng tính thời sự và có tác dụng phục vụ kịp thời công tác tư tưởng trong quân đội. “Đây là vở kịch hay nhất của Đào Hồng Cẩm, cũng là vở xuất sắc nhất của kịch về đề tài quân đội, cũng là vở tiêu biểu của sân khấu chống Mỹ, cứu nước” (Tất Thắng-Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1979, Tr.281).
Đó là tất cả những gì sân khấu kịch nói đã làm được cho hai cuộc kháng chiến của dân tộc (1945-1975), hay nói chính xác hơn là sự đóng góp của mảng đề tài chiến tranh cách mạng trong kịch nói cho cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
HNM
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.