(HNM) - Tháp Bút - cũng như Đài Nghiên - mới có từ năm Ất Sửu (1865). Nhưng đền Ngọc Sơn có từ mùa thu năm Nhâm Dần (1842). Tấm bia nhan đề Ngọc Sơn đế quân từ ký (Bài ký đền Ngọc Sơn đế quân) do Vũ Tông Phan soạn năm Quý Mão (1843), hiện còn trong đền mách rằng:
Ảnh: H.Minh
Tấm bia nhan đề Ngọc Sơn đế quân từ ký (Bài ký đền Ngọc Sơn đế quân) do Vũ Tông Phan soạn năm Quý Mão (1843), hiện còn trong đền mách rằng: Đời Lê sơ, đây là nơi các vua thường ra câu cá, có xây một cái đài gọi là Điếu đài (đài câu). Sau đó, tại đây người ta dựng ngôi đền thờ Quan Đế (tức Quan Vũ, tướng đời Thục Hán, nổi tiếng là trung nghĩa). Sang đời Nguyễn Gia Long, ông Tín Trai người làng Nhị Khê mở rộng ngôi đền Quan Đế thành chùa Ngọc Sơn (Ngọc Sơn tự), trước chùa xây một gác chuông. Đến khoảng Nguyễn Thiệu Trị, các con ông Tín Trai nhượng chùa này cho hội Hướng Thiện (một hội do các nhà nho lập ra, vốn thờ thần Văn Xương là thần coi về văn chương thi cử ). Hội này liền bỏ gác chuông, xây ở chỗ đó một nếp đền thờ Văn Xương. Công việc xây dựng bắt đầu từ mùa đông Tân Sửu (1841) đến mùa thu Nhâm Dần (1842) thì hoàn thành và đổi chùa ra đền tức Ngọc Sơn từ.
Hai mươi ba năm sau, vào năm ất sửu (1865) án sát đương nhiệm ở tỉnh Hà Nội là Đặng Huy Tá cùng án sát về hưu là Nguyễn Văn Siêu đứng ra trùng tu lại ngôi đền. Lần này, ngoài việc sửa chữa các nếp đền có việc xây dựng thêm Trấn Ba đình, Đài Nghiên và Tháp Bút và đặt tên cho cây cầu nối bờ Đông với đền là Thê Húc.
Như vậy là Tháp Bút, Đài Nghiên tính đến năm 2006 là 141 tuổi. Tháp Bút, theo ý tưởng của những người thiết kế là "tượng trưng cho nền văn vật". Điều này được nói trong bài Ký khắc trên bia "Trùng tu Văn Xương miếu ký" (Bài trùng tu sửa miếu Văn Xương) do Đặng Huy Tá soạn khi công việc xây dựng hoàn thành (năm 1865) hiện cũng vẫn còn bản dập trong đền. Tượng trưng cho nền văn vật ! Vậy văn vật là gì? Văn vật theo định nghĩa của sách Từ nguyên là "Vị lễ nhạc điển chương dã" có nghĩa nói về lễ nhạc và điển chương. Như vậy văn vật là văn hóa và chính trị.
Tháp dựng trên ngọn núi do đá xếp, đường kính 12m, cao 4m. Tháp vuông có năm tầng, cao cả thảy 28m. Đỉnh là một ngòi bút dựng ngược. Cả cán và ngòi cao 0,9m. Trên thân ba tầng giữa có khắc theo chiều dọc ba chữ Tả Thanh Thiên có nghĩa và Viết (lên) trời xanh. Đã có nhiều người giải thích ý nghĩa của ba chữ này: nào là giãi bày tấm lòng với trời xanh, nào là cảm hứng đầy tráng khí, nào là tâm hồn rộng mở bao la v.v... thậm chí trong một thời điểm bị ảnh hưởng của thời sự có người trong một bài báo lại giải thích chữ Tả phải hiểu là chữ Đả (?!) và ba chữ Tả thanh thiên chính là bốn chữ Đả Thanh thiên tử tức Đánh vua nhà Thanh (!!).
Thực ra cụm kiến trúc Tháp Bút vừa biểu dương văn chương đồng thời lại biểu dương võ công. Nhưng không phải là kêu gọi đả Thanh thiên tử (!) mà là võ công của chúa Trịnh trong việc dẹp cuộc khởi nghĩa của quận Hẻo Nguyễn Danh Phương. Đây mới là ngụ ý của các người thiết kế, vì ta thấy Tháp Bút dựng trên một cái gò chất đầy đá hộc. Gò này tượng trưng cho 1 ngọn núi (theo thuật phong thủy cổ, cao nhất thốn giả vi sơn tức là chỉ cần cao một tấc thì cũng là núi rồi). Núi đó có tên là Độc Tôn. Nhiều tài liệu nói đây là núi Đào Tai hoặc Ngọc Bội là không đúng. Điều trên đã được nói rõ trong bài Bút Tháp chí do Nguyễn Văn Siêu soạn năm 1865 được khắc ngay trên thân tháp ở tầng thứ ba mặt nhìn về hướng nam. Dưới đây là lời dịch bài chí đó: "Trên đỉnh núi Độc Tôn có Tháp Bút năm tầng. Tháp nhờ núi mà cao thêm, núi nhờ tháp mà truyền mãi. Khoảng Lê Vĩnh Hựu (1735-1739) nghịch Phương (tức Nguyễn Danh Phương - N.V.P) lén chiếm núi Độc Tôn ở huyện Phổ Yên xứ Thái Nguyên, Vương sư (chúa Trịnh Doanh) đi đánh dẹp, đóng quân ở núi Ngọc Bội, liên tiếp phá giặc. Ngày khải hoàn, nhân gò đất cao, đắp núi để ghi công, đặt tên là núi Độc Tôn. Sau cuộc chính biến (thay đổi Lê - Trịnh - Tây Sơn - Nguyễn. N.V.P) núi bị gai góc phủ đầy. Trong hồ có miếu Văn Xương. Vào dịp trùng tu miếu, ngó sang bờ Đông, thấy có núi, bèn phát cỏ dọn cây, xây tháp Bút, đối diện với đài Nghiên. ấy núi là biểu tượng của chiến công mà tháp là biểu tượng của văn hóa. Cả hai cái đó dựa vào nhau mà tồn tại".
Tên của núi và ý nghĩa dựng tháp như vậy là đã rõ. Có lẽ cũng nên ghi nhớ thêm là cùng lúc đắp núi Độc Tôn ở bờ Đông hồ thì chúa Trịnh còn cho đắp núi Ngọc Bội bên bờ Tây hồ (Ngọc Bội ở trên Phổ Yên là ngọn núi mà nhà Trịnh đóng quân, còn Độc Tôn là doanh trại của Nguyễn Danh Phương). Cạnh núi có cung Khánh Thụy. Sang đời Lê Chiêu Thống đã cho đốt cung này, song tên thì còn lưu lại ở 2 ngôi làng ở 2 bên cung là Tả Khánh Thụy và Hữu Khánh Thụy. Sang đời Nguyễn 2 làng này nhập vào làng Báo Thiên thành làng Báo Khánh. Nay còn phố Báo Khánh là di tích. Trở lại Tháp Bút, đã có bút thì phải có nghiên. Cho nên ở đầu cầu Thê Húc là Đài Nghiên. Nghiên được đặt trên tòa cửa đầu tiên dẫn vào đền. Đó là một cái nghiên mực bằng đá xanh đẽo tạc theo hình nửa quả đào, cắt ngang theo chiều dọc, khoét lõm. Bề dài quả đào 0,97m, bề ngang 0,8m, cao 0,3m, chu vi 2m, có ba con thiềm thừ (con cóc) đội nghiên như ba cái chân kiềng. Đặc biệt trên thân của nghiên có khắc một bài minh mà tác giả lại cũng là Nguyễn Văn Siêu. Chỉ có 64 chữ (Hán) nhưng ý tứ thật hàm súc. Có nhiều cách hiểu và tới nay có nhiều bản dịch khác nhau. Dưới đây chúng tôi tạm dịch như sau: "Xưa lấy hốc đất làm nghiên, chú giải Đạo Đức kinh, nghiền ngẫm bên nghiên lớn, viết sách Hán Xuân Thu. Từ đá tách ra làm nghiên, chẳng có hình dáng. Không vuông không tròn, dùng vào mọi việc thật kỳ diệu. Không cao không thấp, ngôi ở chính giữa. Cúi soi hồ Hoàn Kiếm, ngửa trông ngọn Bút đá. ứng vào sao Thai mà làm ra mọi biến đổi. Ngậm nguyên khí mà mài hư không".
Có thể đây là một quan niệm có tính chất bản thể luận về cái nghiên mực và cũng là về tư tưởng của con người ta. Văn của Thần Siêu hàm súc là vậy.
Cuối cùng, cũng xin nêu về một ý kiến đã từng nêu ra cũng trong một bài báo cách đây trên hai chục năm mà một số người ngày nay vẫn muốn lặp lại. Đó là ý kiến cho rằng các cụ ta xưa giỏi lắm, thâm thúy lắm, khi xây Tháp Bút, Đài Nghiên: Cứ sáng ngày mùng 5 tháng 5 Âm lịch khi mặt trời mọc thì bóng của ngòi bút chấm đúng vào lòng Nghiên mực! Thật hoang đường! Trong thực tế, không bao giờ có sự kiện thiên văn ấy. Vì mặt trời chuyển động trên vòm trời, tức là chuyển động biểu kiến, được 1 vòng mất 365,2422 ngày. Một năm Dương có 365 hoặc 366 ngày, tùy theo năm đó là năm nhuận hay không nhuận. Một năm lịch Âm, nếu là năm thường có 354 ngày hay 355 ngày; còn nếu là năm nhuận thì có 383 hay 384 ngày. Nếu như lúc mặt trời mọc, đỉnh ngọn Bút Tháp mà chấm đúng vào giữa lòng nghiên mực vào một ngày nào đó, thì phải đúng một năm Dương sau, hiện tượng đó mới lặp lại, và một năm sau nữa mới lại như vậy. Cái nghiên mực cũng rộng, nên việc đó có thể lệch đi một hay hai ngày, nhưng không thể lệch đi 1 tháng. Bởi thế, việc đó nếu xảy ra vào một ngày cố định trong năm thì chỉ có thể theo lịch Dương vì độ dài các năm khác nhau 1 ngày, không thể theo lịch Âm vì độ dài các năm có thể khác nhau đến 1 tháng (29 hay 30 ngày). Và như vậy không thể nào có hiện tượng cứ mùng 5 tháng 5 lịch Âm mặt trời lại chiếu dọi đỉnh ngọn Bút Tháp vào đúng lòng nghiên đá được. Cho nên chỉ có thể coi đây là chuyện "nói trạng" mà thôi.
Nguyễn Vinh Phúc
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.