(HNM) - Những công bố gần đây cho thấy, doanh nghiệp (DN) nước ta đầu tư cho KHCN chỉ bằng 1/3 so với các nước phát triển và 80% không có chiến lược đầu tư cho KHCN. DN cũng chỉ dành 0,2-0,3% doanh thu cho đầu tư đổi mới công nghệ, trong khi chỉ số này ở Ấn Độ, Hàn Quốc lần lượt là 5% và 10%.
Chính vì thế, sự ra đời viện nghiên cứu (VNC) trong DN đến nay là chuyện khá xa lạ. Báo Hànộimới đã có cuộc trao đổi với TS Trần Thế Trung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu công nghệ (NCCN) FPT xung quanh vấn đề DN tham gia phát triển KHCN và những tồn tại trong hoạt động KHCN nước ta hiện nay.
Sinh viên tốt nghiệp ĐH FPT là một trong những nguồn nhân lực cho Viện Nghiên cứu công nghệ FPT. Ảnh: Bảo Lâm |
- Tập đoàn FPT là DN ngoài nhà nước đầu tiên thành lập viện nghiên cứu. Xuất phát từ đâu FPT đi đến quyết định này, thưa ông?
- Tập đoàn FPT vốn dĩ được thành lập bởi các nhà khoa học và công việc NCCN không chỉ bây giờ mới có. Tuy nhiên, để có sự đầu tư và chiến lược bài bản thì đây là lúc thích hợp. Sau 20 năm phát triển, chúng tôi thấy rằng, nếu mình vẫn chạy theo nhu cầu của khách hàng, làm cái gì họ yêu cầu thì sức ép doanh số sẽ ngày càng gay gắt. Mặt khác, sự phát triển bền vững của "công ty công nghệ hàng đầu Việt Nam" mà FPT đặt ra sẽ bị ảnh hưởng nếu không đầu tư vào mảng nghiên cứu, phát triển công nghệ khi các đối thủ đã sải những bước dài. Tóm lại, việc ra đời một bộ phận chuyên NCCN là nhu cầu thiết thực, tự thân của FPT. Điều này cũng phù hợp với xu thế phát triển của các tập đoàn công nghệ đa quốc gia như Microsoft, Intel, Nokia... Tất nhiên, để đạt đến tầm như những tập đoàn đó là câu chuyện dài với FPT. Nhưng khi có công nghệ nguồn, khoảng cách giữa FPT và họ sẽ được rút ngắn và chúng tôi có thêm cơ hội bắt tay với các hãng hàng đầu thế giới.
- Từ khi thành lập hồi tháng 5-2010, Viện NCCN FPT đã thể hiện thế nào? Có thể hiểu công việc cụ thể của Viện là gì?
- Năm 2010, FPT dự kiến đầu tư 3,5 tỉ đồng cho Viện và kỳ vọng 4-5 năm tới, hoạt động này sẽ thu hút khoảng 1-2% doanh thu của Tập đoàn. Hiện Viện NCCN FPT đã hoàn thiện chính sách, xác định rõ hướng đi, tìm hiểu các đơn vị có thể hợp tác với mình. Chúng tôi đang thực hiện một dự án về công nghệ và có thể tiết lộ rằng, nếu được duyệt, FPT đặt mục tiêu sẽ có bằng sáng chế đăng ký bảo hộ nước ngoài trong năm 2011.
Viện NCCN FPT sẽ tập trung vào bốn hướng nghiên cứu, gồm: ứng dụng công nghệ thông tin trong các ngành; năng lượng sạch và tiết kiệm năng lượng; công nghệ sinh học và công nghệ vũ trụ.
- DN Việt Nam đầu tư cho KHCN quá ít, trong khi đầu tư từ Nhà nước vì nhiều lý do còn thiếu hiệu quả. Điều này đi ngược với mô hình từ các nước phát triển, cụ thể là sự phát triển của các tập đoàn lớn như đã đề cập ở trên. Ông đánh giá thế nào về vấn đề này và Việt Nam cần làm gì để thu hút hơn nữa cộng đồng DN tham gia NCCN?
- Những tập đoàn như Nokia, Intel, Microsoft... có xu hướng định hướng tiên phong công nghệ nên việc họ tập trung cho NCCN là câu chuyện đương nhiên nếu không muốn đánh mất vị trí. Trong khi đó, 95% DN Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa, ngân sách eo hẹp dẫn đến việc đầu tư cho NCCN là chuyện khó. Điều này dẫn đến hệ quả là sự phát triển của DN công nghệ về lâu dài thiếu bền vững. Tuy nhiên, một lý do cần quan tâm giải thích cho việc DN chưa đầu tư mạnh cho lĩnh vực này là vì họ cũng chưa nhìn thấy mô hình nào thật sự thành công.
Nhóm nghiên cứu vệ tinh nhân tạo (Fspace) của Viện nghiên cứu Công nghệ FPT lắp đặt cột angten thu sóng vệ tinh trên nóc tòa nhà FPT. |
Tôi cho rằng, cơ chế chính sách về NCCN ở nước ta hiện đã khá đầy đủ nhưng điều quan trọng nhất là việc thực thi chúng ra sao thì ta làm chưa tốt. Cốt lõi của câu chuyện này là những dự án, đề tài NCCN phải gắn liền với DN, xác định được nơi chuyển giao kết quả nghiên cứu và mang lại doanh thu thật sự. DN cảm thấy họ thực sự có lợi từ NCCN thì họ sẵn sàng đầu tư trở lại.
- Bài phát biểu nhậm chức Tổng Giám đốc FPT của ông Nguyễn Thành Nam có đề cập đến vấn đề FPT phát triển nhanh, nhưng việc sở hữu các bằng sáng chế đến thời điểm này là nhiệm vụ "bất khả thi". Từ thực tế này, ông có suy nghĩ gì về môi trường hoạt động khoa học ở Việt Nam hiện nay?
- Hoạt động KHCN là một thành tố của nền kinh tế. Theo tôi, trở ngại lớn nhất trong hoạt động này ở nước ta là vấn đề kết nối VNC, trường ĐH, DN. Sở dĩ mối quan hệ này đến nay cơ bản vẫn "đường ai nấy đi" bắt nguồn từ việc nghiên cứu không xuất phát từ nhu cầu thực tế. Tuy nhiên, với các VNC tư nhân, hiệu quả hoạt động không thể không xuất phát từ đòi hỏi của thực tế. Còn với các VNC sử dụng ngân sách nhà nước, tôi cho rằng, chúng ta có thể áp dụng chính sách ưu tiên phê duyệt các dự án nghiên cứu có đơn đặt hàng từ xã hội. Trở lực chính đang nằm ở chỗ thiếu cầu nối các nhà khoa học với nhu cầu xã hội. Đây là vấn đề cấp thiết chúng ta cần giải quyết để KHCN có thể phát triển đúng như kỳ vọng. Tôi nghĩ, cơ chế là do con người làm ra và ta thấy nếu không phù hợp thì phải sửa.
- Thu hút nhân lực trình độ cao là điều kiện sống còn của cơ sở nghiên cứu, vậy Viện đã có kế hoạch quy tụ các nhà khoa học khắp nơi về FPT hay chưa?
- Có hai nguồn chất xám mà Viện có khai thác là trình độ trung cấp và cao cấp. Nguồn chất xám trung cấp, Viện hướng đến là nguồn nhân lực từ sinh viên tốt nghiệp ĐH, các cán bộ FPT có năng lực. Tuy nhiên, đội ngũ "tinh hoa" là những nhà khoa học có tên tuổi trong và ngoài nước cũng là sự lựa chọn của chúng tôi. FPT cam kết trả lương cứng cho cán bộ nghiên cứu ở mức sống khá, ngoài ra là sẽ thưởng theo tiến độ dự án. Nếu nhà khoa học có bằng sáng chế được thương mại hóa, đương nhiên họ sẽ được hưởng lợi tương đương với công sức bỏ ra. Tóm lại, Viện sẽ bảo đảm mức sống cho nhà khoa học có thể nuôi dưỡng ước mơ chinh phục các đỉnh cao khoa học.
- Xin cảm ơn tiến sĩ.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.