Ngày 12-8, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị thúc đẩy xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 2025.
Mục tiêu xuất khẩu 65 tỷ USD trong tầm tay
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam nhấn mạnh, theo chỉ tiêu được giao, năm 2025 ngành phải đạt tốc độ tăng trưởng từ 4% trở lên. Để hoàn thành mục tiêu này, Bộ trưởng đã phân công các Thứ trưởng trực tiếp xuống địa phương, phối hợp hỗ trợ sau khi áp dụng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, kịp thời tháo gỡ khó khăn.
Thứ trưởng Trần Thanh Nam cũng cho biết, trong 7 tháng đầu năm 2025, kim ngạch toàn ngành đạt 39,7 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nông sản đạt 21,5 tỷ USD (tăng 17%), lâm sản 10,4 tỷ USD (tăng 8,6%), thủy sản 6,1 tỷ USD (tăng 13,8%), sản phẩm chăn nuôi 339,2 triệu USD (tăng 22,1%). Đây là tín hiệu tích cực về xuất khẩu của ngành. Ba thị trường lớn là Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản đều duy trì tăng trưởng, dù bối cảnh còn nhiều khó khăn. Đặc biệt, xuất khẩu sang châu Âu tăng mạnh (49%), đạt 4,3 tỷ USD; Trung Đông tăng 10,9%; châu Phi tăng 8,9%.
Tại hội nghị, đại diện các ngành hàng chủ lực cũng đã phân tích từng mặt hàng và định hướng phát triển.
Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam Nguyễn Thanh Bình đánh giá: Hoa Kỳ là thị trường có nhu cầu rất lớn, phong phú, đa dạng về các sản phẩm nông sản nhiệt đới, trong đó có trái cây. 6 tháng đầu năm 2025 kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam vào Hoa Kỳ đạt hơn 261,6 triệu USD, tăng 66% so với cùng kỳ trước. Đây là thị trường đặc biệt có yêu cầu cao, nghiêm ngặt về các tiêu chuẩn chất lượng, an toàn, vệ sinh thực phẩm, bao bì, nhãn mác, sở hữu trí tuệ, trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường.
Những yêu cầu khắt khe này, đòi hỏi các nước xuất khẩu rau quả vào Hoa Kỳ như Việt Nam phải tổ chức sản xuất theo các quy trình, quy phạm pháp luật chặt chẽ, ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại để nâng cao chất lượng và an toàn của sản phẩm, đồng thời bảo đảm việc truy xuất nguồn gốc…
Ông Nguyễn Thanh Bình phân tích, Hoa Kỳ là thị trường lớn, hấp dẫn, đầy tiềm năng đối với rau quả Việt Nam, nhưng hiện tại phần lớn trái cây Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ vẫn chủ yếu phục vụ cho cộng đồng người Việt và người gốc Á tại Mỹ. Người tiêu dùng Mỹ rất quan tâm tới sản phẩm chế biến có lợi cho sức khỏe, nhất là từ sau đại dịch Covid, người Mỹ thích sự tiện dụng, tiết kiệm thời gian trong sinh hoạt. Ngoài ra vấn đề mẫu mã, thuế… cũng là những điều cần quan tâm.
Với xuất khẩu thủy sản, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam Tô Thị Tường Lan thông tin, trong 7 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản đạt 6,22 tỷ USD, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước. Nếu chính sách thuế đối ứng mới của Mỹ được áp dụng, cá tra sẽ chịu tác động đáng kể về chi phí và giá thành trong bối cảnh thị trường Trung Quốc chững lại do tồn kho cao, doanh nghiệp buộc phải mở rộng xuất khẩu sang ASEAN, Nam Mỹ và Trung Đông.
Bà Lan dự báo, những tháng cuối năm, bức tranh xuất khẩu thủy sản Việt Nam được dự báo sẽ “vừa thách thức, vừa kỳ vọng”, song cơ hội vẫn rộng mở. Sự hồi phục mạnh mẽ của thị trường Trung Quốc, ASEAN và Nhật Bản, cùng với tín hiệu gỡ bỏ rào cản kỹ thuật từ EU, mở ra dư địa tăng trưởng cho các dòng sản phẩm chế biến sâu.
Điển hành nhất là mặt hàng cà phê, Chủ tịch Hiệp hội Cà phê ca cao Nguyễn Nam Hải cho hay: Niên vụ cà phê 2024-2025 có giá cao nhất từ trước tới nay, có thời điểm lên tới 5.850 USD/tấn. 7 tháng đầu năm, Việt Nam xuất khẩu 1,1 triệu tấn cà phê, tăng 66% so cùng kỳ.
Châu Âu vẫn là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất, đạt 670.000 tấn, kim ngạch đạt 3,6 tỷ USD; châu Mỹ khoảng 4,7%; châu Á 20,7%. Trước tình hình Hoa Kỳ áp thuế cao 20% sẽ đặt ra nhiều thách thức so với các nước cùng sản xuất cà phê, song cũng là cơ hội để các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu trong các tháng cuối năm.
Các doanh nghiệp sản xuất cà phê đang mở rộng thị trường Trung Quốc, bởi đây là thị trường tiềm năng. Cà phê nhân xuất khẩu sang Trung Quốc chưa cao. Mới đây, Trung Quốc đã cấp phép cho 183 doanh nghiệp cà phê của Brazil được xuất khẩu vào thị trường này. Điều này cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam cần sớm tiếp cận thị trường Trung Quốc.
Hiệp hội ước tính, với dự báo xuất khẩu 1,5 triệu tấn, kim ngạch 7,5 tỷ USD trong năm 2025, số tiền VAT 5% nộp trước tương đương khoảng 370 triệu USD (hơn 10.000 tỷ đồng). Do đó, kiến nghị Bộ Tài chính đề xuất đưa cà phê nhân xanh vào nhóm không chịu VAT, giúp giảm gánh nặng vốn cho doanh nghiệp.
Còn theo Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam Đỗ Hà Nam, trong 7 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo Việt Nam đạt 5,5 triệu tấn, kim ngạch đạt 2,8 tỷ USD. Trong bối cảnh nhiều quốc gia xuất khẩu gạo sụt giảm, Việt Nam vẫn tăng sản lượng 3,1% dù giá giảm 19%. Dự kiến cả năm 2025, Việt Nam sẽ đạt khoảng 8,8 triệu tấn, giữ vững vị trí quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới.
Gạo Việt Nam hiện đã xây dựng được thương hiệu riêng, được nhiều thị trường ưa chuộng, cung không đủ cầu. Giá xuất khẩu bình quân đạt 514 USD/tấn, cho thấy bước tiến tích cực. Ông Đỗ Hà Nam đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng các cơ quan liên quan quan tâm, hỗ trợ để tận dụng tốt cơ hội này, đồng thời mở rộng thị trường sang Nhật Bản, Hàn Quốc và châu Phi.
Nói về mục tiêu xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản trong năm nay, Cục trưởng Cục Chất lượng, chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Ngô Hồng Phong cho biết, bức tranh xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 7 tháng đầu năm 2025 tiếp tục có nhiều điểm sáng. Do vậy, mục tiêu xuất khẩu đạt 65 tỷ USD là trong tầm tay, nhưng các ngành hàng cũng cần bám sát các mục tiêu để đạt tăng trưởng đề ra.
Xây dựng tầm nhìn chiến lược
Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam nhấn mạnh, cùng với những cơ hội, xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản Việt Nam cần đối diện nhiều thách thức, để duy trì tăng trưởng, đạt mục tiêu đề ra, định hướng trọng tâm của ngành, gồm: Duy trì ổn định các thị trường truyền thống, mở rộng thị trường mới, chuyển từ tăng sản lượng sang tăng giá trị gia tăng với sản phẩm chế biến sâu và tìm đầu ra mới cho các mặt hàng gặp khó tại Hoa Kỳ.
Trước mắt, Bộ tập trung hoàn thiện cơ chế về tỷ giá, tín dụng, logistics; đẩy nhanh đàm phán với Hoa Kỳ; cập nhật nhanh thông tin thị trường; bổ sung sản phẩm có giá trị gia tăng như thủy sản, trái cây chế biến và triển khai giải pháp riêng cho từng ngành hàng.
Về lâu dài, ngành sẽ xây dựng vùng nguyên liệu tập trung đạt tiêu chuẩn quốc tế, giữ vững uy tín chất lượng, ứng dụng công nghệ cao, đổi mới bao bì. Từng thị trường sẽ có hướng tiếp cận riêng, trong đó Hoa Kỳ: Đàm phán chia sẻ chi phí thuế để duy trì xuất khẩu; Trung Quốc: Mở rộng xuất khẩu chính ngạch; châu Âu: Gỡ “thẻ vàng” IUU, tận dụng lợi thế thủy sản nuôi, rau quả; Nhật Bản: Gia tăng sản phẩm chế biến chất lượng cao; Hàn Quốc: Đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản, gỗ, lâm sản, trái cây; ASEAN: Mở rộng rau quả tươi, thủy sản, sản phẩm chăn nuôi; Trung Đông sẽ khai thác thị trường Halal trị giá khoảng 2.000 tỷ USD, chiếm 20% dân số toàn cầu. Đây là thị trường có tiềm năng rất lớn.
Tham tán nông nghiệp Việt Nam tại thị trường EU Trần Văn Công đánh giá, tiềm năng thúc đẩy xuất khẩu nông, lâm, thủy sản vào thị trường EU còn rất lớn. Tuy nhiên, tỷ trọng hàng chế biến, giá trị gia tăng của Việt Nam xuất khẩu sang EU còn thấp, chưa tạo được kênh phân phối bền vững, chưa có thương hiệu, khả năng hiện diện tại chưa phổ biến. Khoảng cách địa lý xa, tuyển vận chuyển Á - Âu hay xảy ra xung đột dẫn đến bị gián đoạn, chi phí logistics cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh 30-40%, Bên cạnh đó, EU luôn đưa ra các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, phát triển bền vững cao và liên tục cập nhật.
Để khai thác thị trường tiềm năng EU, Tham tán nông nghiệp Việt Nam tại thị trường EU Trần Văn Công kiến nghị, Việt Nam cần phát triển các vùng nguyên liệu đạt chuẩn EU; xây dựng các vùng sản xuất an toàn dịch bệnh đối với các vùng chăn nuôi trọng điểm để thúc đẩy việc đàm phán EU mở cửa thị trường sản phẩm động vật cho Việt Nam. Ngoài ra, cần tăng cường xây dựng thương hiệu quốc gia, nhãn hiệu sản phẩm, đa dạng chủng loại sản phẩm hơn vào các kênh, chuỗi phân phối tại EU.
Còn theo Tham tán thương mại Việt Nam tại Trung Quốc Nông Đức Lai, với quy mô nhập khẩu hàng năm lên đến 2.500 tỷ USD, trong đó nông sản từ 210 đến 230 tỷ USD/năm, có thể thấy Trung Quốc vẫn là thị trường lớn đầy tiềm năng đối với hàng hóa nông, lâm, thủy sản của Việt Nam. Tuy nhiên, đây không còn là thị trường dễ tính. Chính vì vậy, Việt Nam cần chú trọng và không ngừng nâng cao chất lượng hàng hóa nông, lâm, thủy sản, tuân thủ quy định của nước nhập khẩu về tiêu chuẩn chất lượng, bao bì đóng gói, truy xuất nguồn gốc. Ngoài ra, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại vào sâu trong nội địa và các địa phương ở khu vực phía Bắc, Tây Bắc Trung Quốc...
Kết luận hội nghị, quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng nhấn mạnh, nhìn lại thời gian qua, dù đối diện với nhiều biến động phức tạp của khu vực và thế giới, chúng ta vẫn đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Hoạt động xuất nhập khẩu nông, lâm, thủy sản tiếp tục giữ vai trò trụ cột, đạt nhiều kết quả toàn diện.
“Bộ Nông nghiệp và Môi trường quyết tâm bằng mọi biện pháp đạt tăng trưởng ngành hơn 4%; kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt hơn 65 tỷ USD, phấn đấu 70 tỷ USD trong năm 2025”, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết. Bộ cũng đề ra những giải pháp cụ thể, trước mắt và dài hạn, xây dựng tầm chiến lược cho xuất khẩu nông sản Việt Nam.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.