(HNMO) - Kết thúc buổi xét xử sáng nay (27-5), sau khi nêu các tội danh, đại diện Viện kiểm sát đề nghị tổng mức án đối với Nguyễn Đức Kiên là 30 năm tù.
Đây là ngày thứ 7 diễn ra phiên xét xử sơ thẩm.
8h30, tòa tiếp tục làm việc. Theo dự kiến tòa đã kết thúc phần xét hỏi từ chiều 26-5, nhưng chủ tọa cho biết các LS có đơn đề tiếp tục xét hỏi để làm rõ một số nội dung nên HĐXX tiếp tục cho phép các LS xét hỏi tại tòa.
LS xét hỏi Huỳnh Quang Tuấn. Bị cáo cho rằng việc ủy thác cho nhân viên gửi tiền chưa chắc đã sai theo tinh thần của các văn bản pháp luật trước đó, thời điểm đó NHNN chưa có văn bản điều chỉnh. Hôm nay nghĩ lại, Huỳnh Quang Tuấn cho rằng đúng hay sai là do cơ quan chức năng xác định. Bị cáo cho rằng không phải chịu trách nhiệm về hoạt động này vì không trực tiếp tham gia.
Bị cáo Phạm Trung Cang được xét hỏi về việc mua bán cổ phiếu giữa ACBS với ACI, ACI-HN. Phạm Trung Cang cho biết sau 31-12-2010 đã từ nhiệm, không biết gì về các thương vụ của ACB.
Đại diện NHNN không khẳng định rõ việc mua trái phiếu có phải là một hình thức cấp tín dụng hay không. Năm 2012, NHNN thanh tra ACB, đã phát hiện sai phạm khá nghiêm trọng, chủ yếu liên quan đến 6 Công ty của Nguyễn Đức Kiên. Hiện tại, kết luận thanh tra này chưa được công bố do có thể ảnh hưởng đến xã hội. Đại diện ACB cho rằng cuộc thanh tra này không nêu rõ việc ủy thác gửi tiền có sai hay không. LS xét hỏi đại diện ACBS để định danh hợp đồng giữa ACBS và ACI, ACI-HN. Đại diện ACI, ACI-HN cho biết có khả năng thanh toán số trái phiếu bán cho VietBank khi đến hạn.
Bị cáo Nguyễn Đức Kiên cho biết có cuộc họp 8-9-2011 giữa thống đốc NHNN và một số lãnh đạo ngân hàng. Nội dung cuộc họp liên quan đến hoạt động ủy thác cho nhân viên ngân hàng đi gửi tiền.
Nguyễn Đức Kiên cho rằng ý kiến của Tổng cục Thuế không phù hợp với pháp luật. Giám định viên đã giám định không đầy đủ, không chính xác. Cho đến trước khi Kiên bị bắt, cơ quan Thuế chưa có ý kiến gì về sai phạm về thuế của B&B. Năm 2009, B&B đã thực hiện đầy đủ việc kê khai các hoạt động nghiệp vụ theo đúng quy định. Trong quá trình quyết toán thuế ở B&B, Cục Thuế Hà Nội và Tổng cục Thuế có văn bản trao đổi, Nguyễn Đức Kiên đề nghị đưa các văn bản này vào hồ sơ vụ án.
|
Bà Đặng Ngọc Lan cũng cho biết, năm 2009 không phát sinh nghiệp vụ nào phải nộp thuế tại B&B. Nếu có vi phạm về thuế thì cơ quan Thuế phải có hướng dẫn.
Nguyễn Đức Kiên khai, khi ACB thông báo ý kiến cho ACBS về việc đầu tư mua cổ phiếu đã thông báo đúng và đủ ý kiến của HĐQT về hạn mức 700 tỷ đồng, mua những cổ phiếu có tính thanh khoản cao. Việc ACI va ACI-HN mua cổ phiếu của ACB là do kết luận của Kiên với tư cách là Chủ tịch HĐQT, HĐSL 2 Công ty này, không liên quan đến ACB, ACBS. Kiên khai không liên hệ với VietBank, KienLongBank nên không biết 2 ngân hàng này dùng nguồn tiền nào để mua trái phiếu. Kiên không nhận được bất kỳ ý kiến nào về khuyến cáo của cơ quan kiểm toán.
9h30, tòa hỏi đại diện NHNN một số nội dung mang tính chất giải thích pháp luật, đặc biệt là Luật Tổ chức tín dụng 2010. Ngân hàng ACB thời điểm trước năm 2012 chỉ có giấy phếp nhận ủy thác, không được ủy thác cho vay. Nếu ACB muốn ủy thác cho vay phải có giấy phép. Thời điểm ACB ủy thác cho nhân viên đi gửi tiền thì yêu cầu là phải có giấy phép của NHNN.
Đại diện Chi cục Thuế Đống Đa có kiểm tra hoạt động của B&B. Năm 2009, B&B làm ăn có lãi, nộp thuế 181 triệu đồng. Năm 2010, B&B cũng có lãi, nộp thuế 58 triệu đồng. Cục Thuế Hà Nội cho biết, năm 2009, 2010, Cục Thuế có thanh tra hoạt động của B&B, khi đó đại diện B&B ký vào biên bản là Nguyễn Đức Kiên. Nội dung thanh tra là thanh tra việc chấp hành pháp luật về thuế. Kết quả thanh tra cho thấy, 2009 – 2010, B&B đều có lãi. Nếu hồ sơ mà doanh nghiệp không cung cấp thì đoàn thanh tra không kiểm tra được.
Huỳnh Thị Huyền Như khai, tổng số tiền hỏa hồng của các cá nhân từ ACB gửi là trên 10 tỷ. Huỳnh Bảo Ngọc khai tự mình thỏa thuận với Huyền Như về số tiền hỏa hồng, lãi suất vượt trần, số tiền đó ngân hàng ACB được hưởng. Kế toán trưởng Nguyễn Văn Hòa đã biết.
Bị cáo Trần Ngọc Thanh tiếp tục cho rằng do tin tưởng Nguyễn Đức Kiên nên ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần với phía Hòa Phát.
9h50, tòa tuyên bố kết thúc phần xét hỏi và nghỉ giải lao.
10h10': Tòa tiếp tục làm việc, chuyển sang phần tranh luận. Trước khi tranh luận trước tòa, đại diện Viện KSND đã kết luận vụ án liên quan đến bị cáo Nguyễn Đức Kiên và 8 bị cáo khác về các tội danh "kinh doanh trái phép", "cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng", "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và "trốn thuế".
Đại điện Viện KSND cho rằng không ít doanh nghiệp đã dùng những thủ đoạn trốn tránh trách nhiệm với nhà nước nhất là trong lĩnh vực ngân hàng, gây ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ của nhà nước, bất bình trong dư luận xã hội. Việc xét xử Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm thể thiện quyết tâm đấu tranh loại bỏ các hành vi vi phạm pháp luật.
Với hành vi “kinh doanh trái phép” tại Công ty B&B, VKS cho rằng Nguyễn Đức Kiên đã chỉ đạo B&B mua cổ phần, cổ phiếu, góp vốn dù không có giấy phép. Tương tự, Kiên đã chỉ đạo Công ty AFG góp vốn vào công ty khác, mua cổ phiếu. Tại Công ty ACBI, ACI, ACI-HNM cũng không có giấy phép kinh doanh tài chính không được cấp phép, mua cổ phiếu của một số ngân hàng. Tại Công ty Thiên Nam, mặc dù không được cấp phép kinh doanh vàng vật chất và vàng trạng thái. Nguyễn Đức Kiên đã chỉ đạo việc mua bán trạng thái vàng trên tài khoản nước ngoài, trị giá tương đương hơn 9.700 tỷ đồng. Ngoài ra, Công ty Thiên Nam còn kinh doanh trạng thái vàng trong nước với ngân hàng ACB.
Về hành vi “trốn thuế”, năm 2009, Công ty B&B thực hiện các lệnh ủy thác cho ngân hàng ACB mua bán vàng trạng thái được lãi số tiền hơn 100 tỷ đồng nhưng bằng việc ký hợp đồng và phụ lục hợp đồng ủy thác đầu tư tài chính, B&B đã chuyển toàn bộ lợi nhuận cho bà Nguyễn Thúy Hương thụ hưởng để không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp số tiền hơn 25 tỷ đồng. Dù bị cáo không thừa nhận việc trốn thuế nhưng tại tòa có thể kết luận việc ký hợp đồng ủy thác giữa B&B và Nguyễn Thúy Hương chỉ là hành vi trốn tránh nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp.
Về hành vi “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Nguyễn Đức Kiên đã chỉ đạo ACBI ký hợp đồng thế chấp 22.497.000 cổ phần Công ty CP Thép Hòa Phát cho ngân hàng ACB và mặc dù chưa được giải chấp vẫn chỉ đạo GĐ ACBI Trần Ngọc Thanh và Kế toán trưởng Nguyễn Thị Hải Yến lập khống biên bản họp, quyết định của HĐQT thể hiện chủ trương bán 20 triệu cổ phiếu trong số trên cho Công ty TNHH Một thành viên Thép Hòa Phát. Phía mua đã chuyển 264 tỷ đồng cho ACBI. Nguyễn Đức Kiên đã chiếm đoạt toàn bộ số tiền này, chi trả cho Công ty và chi tiêu riêng. Về hành vi này, Kiên chối tội. Thanh và Yến khai do tin tưởng Kiên nên thực hiện.
Về hành vi “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, các bị cáo tại ACB ủy thác cho nhân viên gửi tiền vào các ngân hàng khác là làm trái quy định tại Điều 106 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, gây thiệt hại cho ACB hơn 718 tỷ đồng. Các bị cáo cũng đã ra chủ trương đầu tư cổ phiếu ngân hàng ACB, gây thiệt hại cho ACB hơn 687 tỷ đồng.
Đại diện VKS nhấn mạnh, trong các hành vi vi phạm trên, Nguyễn Đức Kiên chiếm vai trò chủ mưu, chỉ đạo. Kiên cũng thừa nhận các ý kiến của mình nêu ra sau đó đều được HĐQT đưa thành nghị quyết. Quá trình điều tra và tại tòa, bị cáo không thành khẩn, không nhận tội, coi thường pháp luật… cần cách ly bị cáo với xã hội thời gian dài, mức án cao.
Đại diện VKS cũng thể hiện quan điểm, đối với các bị cáo khác, dù mức độ phạm tội khác nhau, mức độ trục lợi khác nhau nhưng hành vi vi phạm là rõ ràng, nhiều hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng, nhiều bị cáo chưa ăn năn hối cải, chưa thành khẩn nên cần cách ly với xã hội. Với bị cáo Huỳnh Quang Tuấn, Phạm Trung Cang được cho là thành khẩn, chưa có tiền án nên có thể xem xét mức án nhẹ nhất, không cần cách li. Bị cáo Trần Xuân Giá đã đình chỉ vụ án nên không xem xét. Với quan điểm trên, đại diện VKS đề nghị mức án:
Nguyễn Đức Kiên: 18-24 tháng tù Kinh doanh trái phép 25-35 triệu, tịch thu số tiền đã kinh doanh trái phép; 4-5 năm tù trốn thuế, truy thù gần hơn 24 tỷ đồng, phạt 2-3 lần số thuế trốn; 16-18 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; 14-15 năm tù về tội “cố ý làm trái”, cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý và điều hành các tổ chức tín dụng, ngân hàng 3-5 năm. Chấp hành hình phạt chung là 30 năm tù.
Trần Ngọc Thanh: 9-10 năm tù tội lừa đảo.
Nguyễn Thị Hải Yến: 7-8 năm tù tội lừa đảo
Lý Xuân Hải: 12-14 năm tù về tội “cố ý làm trái”, cấm đảm nhiệm chức vụ và quản lý điều hành tổ chức tín dụng ngân hàng 3-5
Lê Vũ Kỳ: 7-8 năm tù
Trịnh Kim Quang: 6-7 năm tù
Phạm Trung Cang và Huỳnh Quang Tuấn: 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 5 năm.
11h15': Tòa nghỉ.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.