(HNM) - Qua các triều đại phong kiến Việt Nam, tùy từng vị trí trong xã hội mà phương tiện đi lại là voi, ngựa, kiệu, võng. Đầu thế kỷ XX, cáng vẫn được sử dụng khá phổ biến cho những chuyến đi xa cho dù lúc này đã có xe tay.
Đến xích lô Hà Nội
Khoảng năm 1943, người Pháp đã du nhập vào Hà Nội một phương tiện hoàn toàn mới mẻ, lạ lẫm: Cyclopousse Omic. Người dân đọc theo phiên âm tiếng Pháp là xích lô. Chiếc xe có ba bánh cao su, chỗ ngồi thấp nên không sợ lật người chở ngồi phía sau đạp như xe đạp.
Dù giá mỗi chiếc khoảng bảy nghìn rưởi tiền Đông Dương, khoản tiền không hề nhỏ lúc bấy giờ nhưng ngay lập tức nó được các nhà kinh doanh đặt hàng và không ít cá nhân mua làm xe gia đình. Phương tiện giao thông này có ưu thế hơn hẳn so với xe kéo bánh sắt, bánh cao su hoặc xe ngựa bởi đi lại thuận tiện và cũng có vẻ sang. Tuy nhiên, nó được sản xuất chở người Pháp nên kích thước cồng kềnh, nặng nề và việc sử dụng cũng không dễ dàng, đòi hỏi nhiều sức lực. Thế nhưng nhìn chiếc xe chở khách trên phố, có một chàng trai muốn cải tiến lại, đó là Phạm Xuân Tuất.
Xích lô du lịch trên đường phố Hà Nội. Ảnh: Bảo Lâm |
Những năm 1930, phố Phùng Hưng là nơi tập trung các cửa hàng sửa chữa, buôn bán đồ cơ khí nhập khẩu từ Pháp. Ông nội Phạm Xuân Tuất nguyên là thợ rèn làng Vân Canh (Hoài Đức, Hà Nội) lập nghiệp ở phố này bằng cách mở một cửa hàng cơ khí ở số nhà 173 để rèn nông cụ, dao, cuốc... Do làm tốt, công rẻ nên uy tín của cửa hàng tăng dần theo thời gian, sản nghiệp cũng dần sinh sôi. Hàng chục năm ròng làm nghề, cụ tranh thủ truyền nghề cho con, ông cụ thân sinh ra Tuất. Gia đình mỗi lúc phát đạt hơn, có vốn, cụ mở một hãng thầu, chuyên xây dựng, sửa chữa ô tô lấy tên là Phúc Long. Bố ông Tuất lập riêng một xưởng cơ khí, chuyên làm cửa hoa, cửa xếp. 15 tuổi, Phạm Xuân Tuất được cha kèm cặp nghề và cung cách quản lý những mong sau này trông coi và phát triển sản nghiệp. Năm 1948, ông đánh liều xin cha tiền mua một chiếc xích lô về mày mò. Dỡ tung chiếc xe, ông nghiên cứu tỉ mỉ từ độ cong, uốn của khung xe, vật liệu sản xuất đến độ bền và tính năng của từng chi tiết... Từ đó, trong đầu ông hình thành mẫu chiếc xích lô Hà Nội. Rồi ông tìm đến hãng sản xuất xe đạp Péc-xê của Pháp đặt một số loại ống thép để làm khung vì đây là bộ phận khó làm nhất. Ngoại trừ săm lốp, xích, líp không tự sản xuất được, còn lại các bộ phận khác, Phúc Long làm lấy. Trọng lượng chiếc xe nhẹ hơn, kích cỡ gọn hơn nhưng vẫn bảo đảm độ an toàn và khả năng tải trọng. Hãng bắt đầu lắp ráp, sản xuất hàng loạt, giá một chiếc xích lô Phúc Long chỉ bốn nghìn rưởi. Nhiều nhà cho thuê thấy xe Phúc Long hơn hẳn xe nhập về kỹ thuật và giá cả lại rẻ đã đến đặt hàng. Trung bình mỗi tháng, hãng bán được 100 cái. Dần dần, xích lô Phúc Long độc chiếm thị trường Hà Nội, sau đó là cả miền Bắc. Làm ăn lớn khi ấy có nhà Đức Âm, chủ rạp Đại Nam, Đức Kim hay như Mỹ Cự ở Sinh Từ, Sinh (Triệu Việt Vương), ông Nhàn ở phố Huế... đều đặt hàng của Phúc Long. Những ông chủ này có một đội phu chạy khoán, có phu thuê theo ngày hoặc theo giờ và nhận tiền của phu. Lỗ lãi thế nào phu thuê phải chịu. Xích lô Phúc Long đã trở thành phương tiện giao thông phổ biến nhất trên đường phố. Một số nhà có của, chẳng hạn như "sếp" Ga Hà Nội, Chánh cẩm bốt Hàng Đậu đặt làm xe riêng. Loại này gọi là xe nhà, được chau chuốt từ khung, vành đến ghế ngồi... Tất cả đều mạ sáng choang, sang trọng và lịch lãm.
Kể từ khi xích lô Phúc Long xuất hiện, Cyclopousse Omic gần như nằm bẹp, chủ nhập xe này cay cú nhưng đành chịu. Tuy chiếm được thị trường nhưng ông Tuất tiếp tục cải tiến, xe được lắp thêm đèn để đi ban đêm. Trục giữa được nâng lên ngang bằng trục sau để người đạp không mất nhiều sức khi chở khách đường dài. Lúc Phúc Long hưng thịnh nhất, một vài nghiệp đoàn vận tải phía Nam cũng ra đặt, trong đó có đơn hàng hơn 100 chiếc của Hãng bảo hiểm xe hơi Nguyễn Quốc Kỳ. Thấy sản xuất xe này kiếm ăn được, mấy chủ hãng xe khác như Đức Ký ở phố Hàng Thiếc, Phan Lạc Ty ở phố Hàng Bông cũng tự sản xuất dù Phúc Long đã làm chủ thị trường. Xích lô mang thương hiệu Phúc Long nổi đình nổi đám một thời đã được ghi lại trong văn khố của Sở Lưu trữ lịch sử Paris.
Năm 1954, Hà Nội được giải phóng, thời thế thay đổi, Hãng Phúc Long không sản xuất xích lô nữa và ông chủ trẻ trở thành thợ một xí nghiệp cơ khí, chuyên làm nồi hơi... Năm 2006, ông sống trong ngôi nhà tuềnh toàng ở ngõ 82 phố Kim Mã. Ngày trước, nhiều nhà xung quanh khu vực này là nhà ông. Gia cảnh mỗi lúc một khác, ông bán dần lấy tiền sống. Ngay sân xéo cửa ra vào, một bộ máy tiện han gỉ được che chắn cẩn thận. Sau bao nhiêu năm gắn bó với nghề, giờ ông giữ lại làm kỷ niệm. Nhiều người hỏi mua nhưng ông không bán.
Đổi đời từ xích lô
Thời bao cấp, đạp xích lô chủ yếu là người quê. Tối tối họ đậu xe dưới mái hiên Bách hóa Tổng hợp, Bách hóa số 5 Nam bộ, Khách sạn Thống Nhất (nay là Metropole)… thành từng tốp. Từ khách sạn "Đờ La Hiên" từ họ mà ra. Trước khi ngủ, bao giờ họ cũng loay hoay tìm chỗ giấu tiền vì sợ bị trấn lột cho dù họ biết "đồng tiền liền khúc ruột".
Đạp xích lô là nghề vất vả "Ráo mồ hôi là hết tiền". Tuy nhiên, đạp xích lô chở thực phẩm hay bia hơi thì lại là nhất vì không chỉ kiếm được tiền mà khối người phải nhờ vả. Một người chuyên chở bia hơi thời bao cấp nay thành tỷ phú, đó là ông Nguyễn Hữu Đường. Ông Đường đi bộ đội năm 1975, xuất ngũ năm 1979. Năm 1981, ông xin được một chân chở bia đến các cửa hàng cho Công ty Bia Hà Nội. Tích lũy được khoản tiền kha khá, ông giã từ xích lô thành lập nhà máy sản xuất bia hơi. Làm ăn tấn tới, ông nhập dây chuyền sản xuất bia chai. Nhận thấy các cơ sở làm bia đều nhập malt (một loại nguyên liệu để sản xuất bia), ông lại huy động khoảng 250 tỷ đồng xây nhà máy sản xuất nguyên liệu này. Nếu ai có dịp đi qua đường Hoàng Quốc Việt sẽ thấy tòa tháp đôi Hòa Bình cao 21 tầng, đó là của Đường "xích lô".
Hà Nội có cụ già năm 2004 tròn 100 tuổi vẫn đạp xích lô đó cụ Phạm Quang Giáng. Cụ Giáng quê Quảng Nam, tập kết ra Bắc năm 1954 cùng với mười một người con vì vợ cụ đã hy sinh. Cụ tham gia quân đội rồi bị thương. Khi đang điều trị tại Bệnh viện 108, một người bạn vào thăm, đi cùng là cô em gái. Lúc ấy cô gái mới ngoài hai mươi nhưng gặp "anh Giáng" thấy xốn xang, dần dà cô quý mến người đàn ông gà trống nuôi con tuổi "tri thiên mệnh". Con trai cả biết chuyện, nhưng tư duy rất thoáng "con chăm cha không bằng bà chăm ông". Ra viện và thế là họ thành vợ thành chồng. Rồi cụ chuyển ngành làm nhân viên đạp xích lô chở bia của Nhà máy Bia Hà Nội. Nghỉ hưu, Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội quận Ba Đình giúp đỡ bằng cách cấp cho cụ chiếc xích lô để cụ thêm thu nhập vì nhà đông con mà cụ lại còn sức khỏe. Cụ tiếp tục nhận chở bia suốt thời phân phối. Hết bao cấp, cụ xoay ra chở khách. Khoảng những năm 1990, cụ quyết định dùng chiếc xích lô biển số XL 172-04 đi thăm con cháu. Chuyến đi kéo dài 5 tháng từ Bắc vào Nam vì cụ có 128 cháu, chắt sống rải rác ở các tỉnh.
Năm 1991, cả Hà Nội có khoảng 1.500 chiếc xích lô. Năm 1996, thực hiện Nghị định 36/CP của Chính phủ, xích lô bị cấm lưu hành vì cái "tội" làm tắc nghẽn giao thông. Từ đấy không còn khách sạn "Đờ La Hiên". Giờ chỉ còn xích lô du lịch. Họ thuê nhà trọ chứ không quăng thân vào gió bụi như thời bao cấp.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.