(HNM) - Trong truyện ngắn “Cầu An Hạ” của nhà văn Khuất Quang Thụy (năm 2002) có đoạn “... cầu An Hạ từng là nơi mà những chiếc xe tăng của Anh hùng quân đội Đoàn Sinh Hưởng và đồng đội quần nhau với một bầy xe tăng địch. Người ta nói rằng đó là một trong những trận tao ngộ chiến xe tăng oanh liệt nhất trong lịch sử quân đội ta...”.
Xe tăng mang số hiệu 980 từng gắn bó và lập nhiều chiến công với Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng trong Chiến dịch Tây Nguyên, nay được dựng làm Tượng đài Chiến thắng ở Ngã 6, thành phố Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk). |
Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng sinh năm 1949 (quê gốc xã Bình Ngọc, thị xã Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh) là Tiến sĩ Khoa học quân sự, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Tư lệnh Binh chủng Tăng thiết giáp, nguyên Tư lệnh Quân khu 4, Chủ tịch Quỹ Mãi mãi tuổi 20. Năm 1966, khi tròn 17 tuổi, ông nhập ngũ vào Đại đội 9, Tiểu đoàn 3, Lữ đoàn 273, Quân đoàn 3.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, những trận chiến đấu ở Chiến dịch Tây Nguyên (tháng 3-1975), đặc biệt là trận đánh ở Buôn Ma Thuột đã làm nên tên tuổi của Đoàn Sinh Hưởng cùng những cán bộ, chiến sĩ xe tăng Quân đội nhân dân Việt Nam. Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng cho biết, sau khi giải phóng Buôn Ma Thuột, Đại đội 9 của ông đánh xuống Phú Yên (ngày 1-4), quay về Tuy Hòa, Nha Trang, sau đó về Buôn Ma Thuột tập kết theo đường 14 (qua đoạn Đắk Lắk, Đắk Nông), chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh đã bước sang giai đoạn cuối.
Lúc đó, đoàn tăng gồm một trung đoàn với gần 100 chiếc xe tăng. Để tiến về Sài Gòn theo hướng của đại đội, ông chỉ có một con đường độc đạo, quân chủ lực của ta phải qua cứ điểm ở khu vực cầu An Hạ (giáp ranh giữa hai huyện Hóc Môn và Củ Chi nằm trên quốc lộ 22). Đại đội trưởng Đại đội 9 xe tăng Đoàn Sinh Hưởng được giao nhiệm vụ thọc sâu đánh vào cầu An Hạ để quân ta vượt cầu này, nếu cầu này bị sập quân ta sẽ không tiếp tục hành tiến được. Mệnh lệnh của Chính ủy Sư đoàn 10 Lữ Ngọc Châu lúc đó đưa ra là phải giữ bằng được cầu An Hạ.
Nhận lệnh đánh và giữ cầu An Hạ lúc khoảng 1h sáng 29-4-1975, cần người dẫn đường nhưng không kịp có nên Đại đội trưởng Đoàn Sinh Hưởng quyết định tự tìm đường. Đi qua đường sang Củ Chi, lúc đó đội hình chỉ có 4 xe tăng đi hướng Đông, gặp hàng trăm tên địch ngăn lại. Đơn vị quyết định nổ súng bằng hỏa lực trên xe tăng (pháo 75mm, 100mm). Trên đường hành tiến có rất nhiều sắc quân (dân vệ, bảo an, quân chủ lực) và đủ loại hỏa lực của địch đánh chặn, phải vừa đi vừa đánh. Đến Củ Chi lại tiếp tục gặp địch. Địch tiếp tục dùng súng DKZ bắn, ném lựu đạn vào xe, quân ta trên xe lấy lựu đạn ném lại.
Có những lúc bộ binh của địch bâu vào xe, quân ta phải ném lựu đạn cho chúng giãn ra để tiêu diệt. Lúc tiến đến cầu, phát hiện có một đoàn xe tăng bọc thép chạy ra, Đoàn Sinh Hưởng cho anh em dừng lại, đưa vào phòng ngự gấp. Lúc này, ông tự nhủ, phải bình tĩnh, giữ vững sự sắc sảo của người chỉ huy. Do còn 4 chiếc xe tăng, ông chỉ huy anh em dồn đội hình lại, chiếm giữ vị trí địa hình có lợi nhất. Chờ đoàn xe của địch đi qua hết cầu rồi mới nhả loạt đạn đầu tiên, chiếc xe đi đầu bốc cháy. Loạt đạn tiếp theo bắn cháy chiếc cuối cùng. Cái đầu và cái cuối bị cháy đã gây tắc đường, giam chân địch ngay trong tầm bắn của mình, làm “tắc” khả năng chống đỡ của chúng.
Sau gần 1 giờ chiến đấu, 4 xe tăng của ta đã bắn cháy 12 xe tăng của địch. Địch hoảng loạn không còn khả năng chiến đấu, các chiến sĩ Đại đội 9 xông ra áp sát đoàn xe của địch, tiêu diệt những tên còn lại và tịch thu thêm 12 chiếc xe tăng của địch để bổ sung cho chính mình.
Sau đó, đoàn xe của Đại đội 9 tiến vào trại huấn luyện Quang Trung, tại đây bắt sống thêm 2 đại tá, giải giáp 1 tiểu đoàn (ngày 29-4). Lúc đó, có mệnh lệnh khẩn từ cấp trên, yêu cầu Đại đội 9 dừng lại tại ngã tư Bảy Hiền để đánh vào Bộ Tư lệnh không quân, Bộ Tổng tham mưu Ngụy.
Để rồi, ngày 30-4 lịch sử, đoàn xe tăng của Đại đội 9 đã cùng đại quân tiến vào Sài Gòn, hòa chung niềm vui chiến thắng, kết thúc Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. “Đêm đầu tiên của ngày chiến thắng, chúng tôi không ai có thể ngủ vì hạnh phúc tột cùng, ai cũng lâng lâng trong trạng thái vừa cười vừa khóc...”, Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng nhớ lại.
Nheo lại đôi mắt một thời trận mạc, Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng kể rằng: "Đây là một trận đánh kinh điển trong lịch sử quân đội ta, bởi chúng tôi chỉ có 4 xe tăng, đấu với 24 xe tăng của địch, diệt 12 chiếc và bắt sống 12 chiếc”. Trận cầu An Hạ bắt đầu từ lúc 6h sáng 29-4-1975 và kết thúc lúc 10h20 cùng ngày. Sau này, có một người bạn Nga gặp lại ông sau 20 năm đã thừa nhận, đây là một trận đánh quan trọng, có hiệu quả ở tầm thế giới, bởi chỉ 4 xe tăng mà tiêu diệt và khống chế 24 xe tăng địch thì hầu như rất hiếm, tương quan lực lượng quá chênh lệch.
Trận cầu An Hạ là trận tao ngộ chiến oanh liệt (vừa hành tiến, vừa đánh ngay lúc gặp địch bất ngờ). Trên đường hành quân vào chiến dịch gặp địch đánh bất ngờ, đòi hỏi mọi công tác chuẩn bị, tổ chức, tất cả cho chiến đấu đều gấp gáp, địch ở trước mặt, phương án xử lý phải được đưa ra ngay, không có thời gian chuẩn bị. Mọi phương án phải chắc chắn, phải phán đoán được địch, không thể để xảy ra sai sót.
Trận tao ngộ chiến cầu ở An Hạ còn có tính hiệu quả ở chỗ, quân ta không bị cháy xe, không có thương vong, chỉ bị thương nhẹ hai người. Dù không cân sức nhưng phần thắng đã thuộc về ta, giải quyết được mục tiêu cấp trên giao phó, bảo vệ được cầu Bông (cầu An Hạ) - cây cầu đóng vai trò chiến lược quan trọng, bảo đảm được thời cơ cho chiến dịch...
Nhờ những chiến công, đóng góp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, ngày 12-9-1975, Đại đội trưởng Đoàn Sinh Hưởng được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang lúc mới 26 tuổi, mang quân hàm Thiếu úy, cùng với 6 cá nhân và 59 đơn vị.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.