(HNMCT) - Lịch sử dân tộc Việt Nam được mở đầu bằng thời đại Hùng Vương với công lao dựng nước của các vua Hùng. Công lao ấy được cộng đồng người Việt khắc ghi ngàn đời, trở thành truyền thống cao đẹp của dân tộc với triết lý “Con người có tổ có tông”. Việc thờ cúng Hùng Vương nay đã trở thành tập quán, tín ngưỡng và được người Việt trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tín ngưỡng quan trọng trong tâm thức người Việt
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có tầm quan trọng trong tâm thức của người Việt, khẳng định người Việt có chung một thủy tổ. Nguồn gốc đó là sợi chỉ đỏ tạo nên truyền thống đoàn kết, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Thờ cúng Hùng Vương đã trở thành một biểu tượng văn hóa - tín ngưỡng kết nối quá khứ với hiện tại, có tác dụng vun đắp tình cảm gia đình, làng xã và dân tộc. Với ý nghĩa đó, cộng đồng người Việt tự nguyện giữ gìn và phát triển Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương một cách tự nhiên, không khiên cưỡng. Như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng viết: “Từ lòng biết ơn đến tôn kính các thế hệ tiền nhân và tổ tiên, gia đình, dòng họ, dân tộc ta đã phát triển hình thức sinh hoạt văn hóa, tinh thần ấy thành một đạo lý và tín ngưỡng dân tộc độc đáo, là tín ngưỡng thờ một tổ tiên chung của toàn dân tộc: Các vua Hùng”.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được bắt nguồn từ vùng đất cổ Phú Thọ rồi lan tỏa ra cả nước. Việc thờ cúng Hùng Vương bắt đầu từ sự ra đời của các ngôi đền thờ vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh và từ thói quen của cư dân xung quanh khu vực Đền Hùng. Các ngôi đền Hạ, đền Trung, đền Thượng, đền Giếng thuộc Khu di tích lịch sử Đền Hùng ra đời gắn với quá trình phát triển của các làng xã dưới chân núi. Theo các nhà nghiên cứu, đền Trung có tên chữ là: Hùng Vương Tổ miếu (Miếu thờ Tổ Hùng Vương), được xuất hiện trên núi Hùng do dân thôn Trẹo thờ cúng. Đến thời Lý - Trần, cư dân thôn Trẹo đông lên, lập ra làng Cả. Làng Cả dựng đền Thượng trên đỉnh núi, sau đó lập ra đền Hạ. Từ làng Trẹo, cư dân lấy tên làm họ của mình và phiên âm Hán Việt thành Triệu. Từ đó, thôn Triệu trở thành thôn Triệu Phú và người làng Trẹo thành họ Triệu ngày nay. Họ Triệu hiện còn bản tộc phả hơn 500 năm kể về sự tích của làng và việc lập các đền thờ này.
Như vậy, vùng tâm điểm của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Đền Hùng ở thôn Cổ Tích (xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ). Từ đỉnh núi Hùng - trung tâm thờ tự các vua Hùng, theo dòng chảy thời gian, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương dần lan tỏa tới các địa phương khác. Đầu tiên là các vùng đất quanh chân núi Nghĩa Lĩnh như đình làng Cổ Tích (xã Hy Cương), đình làng Trẹo (thị trấn Hùng Sơn), đình làng Cả (Tiên Kiên)... sau đó lan tỏa khắp Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Hầu như huyện, thành, thị nào trên cả nước cũng có những ngôi đền thờ Hùng Vương, tập trung ở các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ, miền Trung và tiến sâu vào đất phương Nam theo dấu chân mở đất của người Việt. Và giờ đây thờ cúng Hùng Vương đã có ở nhiều nước trên thế giới, nơi có cộng đồng người Việt sinh sống.
Lan tỏa rộng khắp
Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện nay trong cả nước có 1.417 di tích thờ Hùng Vương và vợ con, tướng lĩnh thuộc thời đại Hùng Vương. Riêng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ có 345 di tích gắn liền với Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, trong đó có 249 di tích đang thờ tự (quan trọng nhất là Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Đền Hùng, 37 di tích quốc gia, 135 di tích cấp tỉnh) và 93 phế tích. Phú Thọ là tâm điểm của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương với những hoạt động lễ - hội tại các di tích thờ Hùng Vương trên núi Hùng, thu hút hàng triệu đồng bào tham gia. Ngoài Phú Thọ, các địa phương có điểm thờ Hùng Vương như: Hà Nội, Hải Phòng, Lạng Sơn, Thừa Thiên Huế, thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang... đều tổ chức Lễ giỗ Tổ vào ngày mùng 10 tháng Ba âm lịch hằng năm nhằm tri ân công lao dựng nước của các vua Hùng.
Tại tỉnh Lâm Đồng có hệ thống các đền thờ vua Hùng do cư dân miền Bắc nhập cư xây dựng, tiêu biểu là đền thờ Hùng Vương tại Khu tưởng niệm các vua Hùng được xây dựng tại núi Phượng Hoàng, thuộc Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia thác Pren. Đền được xây dựng năm 1958, đến năm 1989 đã tu sửa lại và rước chân nhang từ Đền Hùng (Phú Thọ) về thờ tự. Tại thành phố Hồ Chí Minh có tới 12 địa điểm thờ vua Hùng. Thành phố Cần Thơ có 2 ngôi đình cổ thờ Hùng Vương nằm ở quận Bình Thủy và quận Ô Môn. Hằng năm, tỉnh Vĩnh Long tổ chức Lễ giỗ Tổ với việc rước linh vị vua Hùng từ đền Long Thành về Trung tâm văn hóa - thông tin tỉnh. Từ năm 1957, nhân dân Kiên Giang đã xây dựng đền thờ Quốc tổ Hùng Vương tại ấp Đông Bình (xã Thạnh Đông B, huyện Tân Hiệp).
Không chỉ ở trong nước mà cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng lập đền thờ các vua Hùng tại Hoa Kỳ, Canada, Australia. Tại Liên bang Nga, Cộng hòa Séc, Lào... đều có các điểm thờ tự các vua Hùng để kiều bào dâng hương trong ngày Quốc lễ. Có thể nói, ở đâu có người Việt sinh sống, ở đó có Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Những không gian tín ngưỡng ấy chính là sự hồi cố về quá khứ, lịch sử, là bằng chứng sinh động, đầy sức thuyết phục về sự phát triển của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trong cộng đồng người Việt. Các di tích và địa điểm thờ tự vua Hùng ở khắp nơi được người Việt bảo tồn, gìn giữ chính là sự khẳng định giá trị tâm linh bền vững trong đời sống tinh thần của cộng đồng.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được ra đời, hình thành và hun đúc gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước của các thế hệ người Việt. Cùng với đó, việc bảo tồn các lễ hội dân gian tại các di tích ấy đã tạo thành hệ thống di sản vật thể và phi vật thể mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương thể hiện sự ngưỡng vọng, đồng thuận, tự nguyện của cộng đồng người Việt trên khắp mọi miền đất nước và kiều bào sinh sống ở nước ngoài. Giá trị của tín ngưỡng luôn được bảo tồn, phát triển ngày càng sâu rộng trong đời sống của người Việt và được trao truyền, thực hành từ thế hệ này sang thế hệ khác để trường tồn và lan tỏa cùng sự phát triển của dân tộc.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.