(HNM) - Chương trình sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường (NLT) quốc doanh theo Nghị quyết của Bộ Chính trị sau hơn 8 năm thực hiện tuy đạt được một số kết quả nhất định nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều kẽ hở, tiêu cực trong quản lý, sử dụng đất đai.
Thực tế đó đòi hỏi phải có những giải pháp vừa phù hợp với thực tiễn, vừa đúng với nội dung của Luật Đất đai. Đây là quan điểm của các nhà quản lý và DN tại hội thảo bàn biện pháp quản lý, sử dụng đất đai trong các NLT diễn ra ngày 13-12.
Để nâng cao hiệu quả của quản lý, sử dụng đất tại các nông lâm trường quốc doanh, cần tháo gỡ, giải quyết những bất cập, tạo cơ chế, chính sách phù hợp. Ảnh: Khánh Nguyên |
Lãng phí, kém hiệu quả
Theo kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp về quản lý, sử dụng đất tại 56 NLT, riêng diện tích đất bị lấn chiếm lên tới 6.375,21ha, cho thuê mượn 1.224,08ha, đất có tranh chấp 2.392,22ha, liên doanh liên kết 2.627,59ha... Trong số 56 đơn vị, chỉ có 6 đơn vị đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 6.770,74ha, đạt 2,53%.
Đáng báo động, tình trạng tranh chấp, lấn chiếm, cho thuê, cho mượn đất trái pháp luật trong các NLT diễn ra phổ biến. So với thời điểm trước sắp xếp, diện tích tranh chấp tăng 2.109,7ha, bị lấn chiếm tăng 1.056,2ha. Nguyên nhân tăng do DN không quản lý được. Ông Trần Hùng Phi, Cục trưởng Cục Đăng ký và Thống kê, Tổng cục Quản lý đất đai, (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, trước đây việc giao đất cho các NLT không cụ thể, chủ yếu giao trên giấy tờ, bản đồ có độ chính xác thấp…. Trong quá trình sử dụng, việc quản lý đất đai của các NLT lỏng lẻo, để dân lấn chiếm, nhiều nơi rất nghiêm trọng, nhất là các NLT ở các tỉnh Tây Nguyên. Nhiều NLT không quản lý được hợp đồng giao khoán để xảy ra tình trạng chuyển nhượng tự do, chuyển mục đích sử dụng làm nhà ở, công trình dịch vụ gây bức xúc trong xã hội... Theo quy định của Luật Đất đai, các tổ chức kinh tế sử dụng đất vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối phải chuyển sang thuê đất hoặc giao đất có thu tiền, song việc thực hiện còn chậm. Đến nay, còn khoảng 50% NLT với khoảng 75% diện tích chưa chuyển sang thuê đất...
Chưa gỡ được nút thắt
Công tác quản lý đất đai tại NLT bùng nhùng, gây khó cho cả chính quyền địa phương và DN. Ông Đỗ Kim Liêm, đại diện Công ty Cao su Thanh Hóa (Tổng Công ty Cao su Việt Nam) cho biết, DN đang bất lực trước thực trạng tranh chấp, lấn chiếm, cho thuê, cho mượn trái phép đất tại NLT trước đây. Ông Liêm đề xuất, phải áp dụng triệt để việc cho thuê đất thì quản lý mới hiệu quả. Tuy nhiên, ông Nguyễn Xuân Thái, Tổng Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Thắng Lợi (tỉnh Đắc Lắc) lại đề nghị, miễn tiền thuê đất NLT cho DN. Ông Thái viện lý do, hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp và chịu nhiều rủi ro bởi thiên tai. Cũng chung quan điểm, ông Phạm Văn Lâm, Công ty Yên Bình (tỉnh Yên Bái) cho rằng, đầu tư phát triển lâm nghiệp phải lấy ngắn nuôi dài nên cần có chính sách hỗ trợ hợp lý. Đề cập đến quản lý, phát triển rừng, đại diện Công ty TNHH Long Đại (Hà Tĩnh) cho rằng, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ trồng rừng nghèo kiệt không sinh lợi về kinh tế, bởi doanh nghiệp đã bỏ chi phí khá lớn để giữ rừng... Ngoài ra, nhiều ý kiến cho rằng cần nhanh chóng tháo gỡ, nhất là các mâu thuẫn giữa NLT quốc doanh với chính quyền và người dân địa phương, trong đó chú trọng tạo cơ chế, chính sách phù hợp để cả hai bên cùng có lợi.
Nghị quyết số 28-NQ/TƯ ngày 16-6-2003 của Bộ Chính trị xác định một trong những trọng tâm về sắp xếp đổi mới và phát triển doanh nghiệp là đến năm 2005, cơ bản hoàn thành việc rà soát, cắm mốc, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chuyển sang thuê đất, tuy nhiên, đến nay chưa thực hiện được mục tiêu đề ra. Để tháo gỡ khó khăn, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Đăng Khoa yêu cầu các DN quốc doanh NLT phải công khai, minh bạch việc cho thuê, cho mượn, liên doanh liên kết... từ đó mới có thể đổi mới, quản lý chặt chẽ quản lý sử dụng đất NLT hiệu quả.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính đến năm 2011, cả nước có 664 NLT và ban quản lý rừng quản ly, sử dụng hơn 6,8 triệu hécta đất. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp là 6,4 triệu hécta, chiếm 94,25%, đất phi nông nghiệp gần 76 nghìn hécta, chiếm 1,11%, đất chưa sử dụng và đất mặt nước ven biển gần 316 nghìn hécta, chiếm 4,63%. |
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.