(HNM) - Nhìn một cách tổng quát, với một vốn văn hóa phong phú và sâu sắc, vươn tới tầm cao tri thức văn hóa của dân tộc, suốt 75 năm hoạt động cách mạng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đưa những tri thức rộng rãi mình có ra phục vụ dân tộc, đem lại cho đất nước những lợi ích thiết thực, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển phong phú, đa dạng của nền văn hóa dân tộc.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng thăm Viện Khoa học Việt Nam năm 1981. Ảnh tư liệu |
Với một trí tuệ lớn, bản lĩnh lớn, nhân cách lớn, tâm hồn lớn, nhà văn hóa lớn Phạm Văn Đồng là nhà văn hóa cách mạng với ý nghĩa từ hoạt động cách mạng trở thành nhà văn hóa, và đưa văn hóa phục vụ sự nghiệp cách mạng.
Sinh ra trong một gia đình trí thức, từ nhỏ Phạm Văn Đồng đã được hấp thụ những giá trị truyền thống tốt đẹp về lịch sử, văn hóa của gia đình, quê hương, dân tộc. Ông có sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử và văn hóa dân tộc và vốn kiến thức rộng rãi về văn hóa thế giới. Học giỏi tiếng Pháp từ thời Quốc học Huế, Phạm Văn Đồng dùng vốn ngôn ngữ đó như một công cụ rất quan trọng để nắm bắt văn học, triết học Pháp và văn hóa phương Tây nói chung, nắm vững các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Được hấp thụ một nền học vấn vững vàng cả Quốc học và Tây học, Phạm Văn Đồng bước vào con đường hoạt động cách mạng chuyên nghiệp một cách vững vàng, tự tin và nhanh chóng trở thành một trong những học trò xuất sắc của Nguyễn Ái Quốc tại lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu. Mười năm đầu trên con đường cách mạng đầy chông gai (1926-1936), chủ yếu là đấu tranh trong nhà tù đế quốc, nhưng Phạm Văn Đồng đã tỏ rõ là một nhà văn hóa sắc sảo, gắn đấu tranh lý luận với hoạt động thực tiễn. Với vốn hiểu biết sâu rộng, Phạm Văn Đồng có nhiều đóng góp to lớn trong việc giúp đỡ các đồng chí tù học tập văn hóa, lý luận, đặt cơ sở cho hoạt động báo chí, một lĩnh vực quan trọng của văn hóa.
Cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng sử dụng ngòi bút như một vũ khí sắc bén trong sự nghiệp "phò chính trừ tà". Ngay sau khi được trả tự do, bị quản thúc ở quê nhà, Phạm Văn Đồng đã tích cực viết bài cho Tạp chí Đỏ, cơ quan ngôn luận của Tỉnh ủy Quảng Ngãi, xuất bản bí mật. Sau đó, khi ra Hà Nội hoạt động, liên lạc được với tổ chức Đảng và nhóm trí thức yêu nước Đặng Thai Mai, Hoàng Minh Giám, Võ Nguyên Giáp, với bút hiệu Đông Tây hoặc không ký tên, Phạm Văn Đồng đã viết nhiều bài cho các báo Tin tức, Le Travail, Notre voix…
Năm 1941, sau khi về nước triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ đạo xuất bản Báo Việt Nam độc lập. Khoảng 30 số đầu do Người trực tiếp phụ trách. Trong thời gian Người sang Trung Quốc và bị chính quyền Quốc dân Đảng Trung Hoa bắt giam và cho đến trước ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Phạm Văn Đồng phụ trách tờ báo, trực tiếp viết và biên tập nhiều bài.
Đây là công việc chính trong thời gian Phạm Văn Đồng hoạt động ở Cao Bằng. Với lối viết ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu theo phong cách báo chí của Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng viết nhiều bài xã luận, những vấn đề có tính thời sự trong nước và quốc tế. Những bài báo do Phạm Văn Đồng viết không chỉ có tác dụng tố cáo tội ác của phát xít, thực dân, giáo dục truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc, nêu cao tấm gương các vị anh hùng dân tộc, ca ngợi thắng lợi của Liên Xô và các lực lượng Đồng minh... mà còn góp tiếng nói quan trọng vào cuộc đấu tranh đòi trả tự do cho Hồ Chí Minh. Đến ngày 20-8-1945, Báo Việt Nam độc lập ra được 126 số, trong đó Phạm Văn Đồng đã chỉ đạo gần 100 số. Sau tờ Thanh niên, đây là tờ báo có số lượng phát hành lớn thứ hai trong thời kỳ bí mật và là tờ báo tồn tại lâu nhất trong điều kiện Đảng ta chưa nắm được chính quyền.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng chụp hình lưu niệm với các cá nhân tiêu biểu về dự Hội nghị Văn hóa các dân tộc thiểu số toàn quốc lần đầu tiên. |
Nhà văn hóa lớn Phạm Văn Đồng được nhìn nhận ở một khía cạnh nổi bật bởi ông là một nhà giáo dục lớn. Trong di sản giáo dục của Phạm Văn Đồng có một hạt ngọc lung linh tỏa sáng, đó là quan điểm "Nghề dạy học là nghề cao quý nhất". "Nghề dạy học là nghề sáng tạo nhất, vì nó sáng tạo những con người sáng tạo". Nghề dạy học cao quý, sáng tạo theo Phạm Văn Đồng bởi đó là một nghề rèn luyện bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp nghiên cứu, phương pháp tìm tòi, phương pháp vận dụng. Những cống hiến của Phạm Văn Đồng cho ngành giáo dục nước nhà trước đây còn nguyên ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn hiện nay.
Đó là những ý kiến tích cực về nội dung và phương pháp giảng dạy; về việc chăm lo cơ sở vật chất cho nhà trường để "trường ra trường, lớp ra lớp". Dành nhiều thời gian đi thăm các trường phổ thông nội, ngoại thành Hà Nội, dự một số giờ dạy của giáo viên môn văn, sử, địa bậc học phổ thông, Phạm Văn Đồng rất không hài lòng về kiểu dạy học thầy nói, trò chép, không đối thoại, không cần suy nghĩ, chỉ bắt chước, nhớ giỏi, nhớ nhiều và làm theo. Là người đứng đầu Chính phủ, dự giờ dạy học, Phạm Văn Đồng muốn gửi tới tất cả chúng ta một thông điệp quan trọng, đó là giáo dục phải luôn luôn được coi là vấn đề đại sự quốc gia, mà cách nói ngày nay là quốc sách hàng đầu.
Liên quan đến quan điểm đưa đất nước "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội", Phạm Văn Đồng cho rằng "muốn như vậy thì giáo dục phải đi trước một bước". Theo GS Phạm Minh Hạc, từ những năm tám mươi của thế kỷ trước, Phạm Văn Đồng đã đưa ra thuật ngữ "Chiến lược con người", đây là một ý tưởng phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Năm 1989, nói chuyện với Hội nghị Giám đốc các sở giáo dục tại Nha Trang, Phạm Văn Đồng khẳng định nền tảng dân trí của cả một dân tộc là một tiêu chí cực kỳ quan trọng đối với nền văn hóa của một đất nước.
Cùng với giáo dục, Phạm Văn Đồng hết sức chăm lo xây dựng nền khoa học Việt Nam theo phương châm "cơ bản nhất, hiện đại nhất, Việt Nam nhất". Ông cũng đặc biệt quan tâm tới văn học, nghệ thuật, nhấn mạnh chức năng của văn nghệ là "hiểu biết, khám phá, sáng tạo", muốn thế phải có vốn chính trị, vốn sống, vốn văn hóa - nghệ thuật. Nhà văn hóa lớn Phạm Văn Đồng để lại nhiều công trình khoa học xã hội nhân văn có giá trị, đặc biệt là các tác phẩm nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác phẩm "Hồ Chí Minh, hình ảnh của dân tộc", tháng 8-1948, được coi là một trong những tác phẩm đầu tiên nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp Hồ Chí Minh, đặt cơ sở cho ngành Hồ Chí Minh học.
Cuốn "Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp" (1990); cuốn "Hồ Chí Minh, quá khứ, hiện tại và tương lại" (1991); cuốn "Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh" (1993); cuốn "Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh" (1998), cuốn "Hồ Chí Minh tinh hoa và khí phách của dân tộc" (2012)… được coi là những tác phẩm tiêu biểu nhất nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh một cách có hệ thống, toàn diện và sâu sắc. Từ việc nghiên cứu tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, năm 1970, Phạm Văn Đồng đặt vấn đề xây dựng môn "Đạo đức học" làm cho môn này "trở nên một ngành khoa học xã hội, một môn học không thể thiếu được trong các trường đại học và giáo dục phổ thông".
Đặc biệt, năm 1994, ở tuổi gần chín mươi, Phạm Văn Đồng viết cuốn "Văn hóa và đổi mới". Có nhà nghiên cứu coi đây là một thứ "di chúc" đặt trong ngoặc kép của một người đã làm Thủ tướng trên 30 năm với tất cả những thăng trầm, trải nghiệm trong những hoàn cảnh cam go nhất của cách mạng để thực hiện Giải phóng, Phát triển và Đổi mới đất nước, đặc biệt về mặt văn hóa. Phan Ngọc cho rằng "Văn hóa và đổi mới đóng góp vào Cương lĩnh cách mạng của nền văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay". Cái "lớn" của nhà văn hóa Phạm Văn Đồng được nhìn nhận ở nhiều lát cắt khác nhau nhưng có một khía cạnh nổi bật, đó là cách nhìn của ông về văn hóa với tầm nhìn bao quát, rằng văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn hóa, như vậy hai là một, một thành hai.
"Văn hóa và đổi mới" là công trình thể hiện cách nhìn và tầm nhìn có tính văn hóa, thấy thời, thế và lực, biết vận dụng thời để tăng cường thế, biết sử dụng thế để tạo thêm thời, biết kết hợp thời và thế để tăng lực; biết "bất biến" và "vạn biến", luôn luôn nắm cái "bất biến" và biết "vạn biến", "vạn biến" nhưng không ảnh hưởng đến cái "bất biến". Nhận thức như vậy để góp thêm một góc nhìn tinh tế, sinh động, đầy đủ, đúng đắn về nhà văn hóa lớn Phạm Văn Đồng.
Cùng với một trí tuệ lớn, Phạm Văn Đồng là một nhân cách văn hóa lớn. Ông là một con người độ lượng, bao dung, nhân hậu, tạo mọi điều kiện dù nhỏ nhất để nâng con người lên, luôn luôn chăm lo vun trồng người tốt, việc tốt để nhân lên những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Đối với đồng chí, đồng sự nói chung, đặc biệt với những trí thức lớn, ông quan tâm tới sự cống hiến và trung thực; khuyến khích những tư duy khám phá, sáng tạo, cách nghĩ, cách làm mới mẻ, khích lệ đầy thông cảm với công việc của trí thức.
Phạm Văn Đồng là một nhà cách mạng chuyên nghiệp. Ông là số ít trong hàng ngũ các nhà lãnh đạo trên thế giới giữ chức vụ Thủ tướng trên 30 năm, càng ngày càng có những cống hiến nổi bật về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, ngoại giao nói chung, đặc biệt trên lĩnh vực văn hóa. Sống, chiến đấu và làm việc theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng thực hiện được điều quý giá nhất đó là suốt đời nêu cao tinh thần trách nhiệm, nói đi đôi với làm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự cách mạng, phục vụ nhân dân, không dính líu gì với vòng danh lợi.
Từ thời trẻ cho đến phút cuối cùng, ông hiến dâng toàn bộ cuộc sống của mình cho sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Là một nhà văn hóa cách mạng, Phạm Văn Đồng đã kết hợp chặt chẽ văn hóa với cách mạng, cách mạng với văn hóa và sự nghiệp văn hóa lớn lao nhất của ông là hướng tới phục vụ mục tiêu cách mạng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn.
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.