(HNM) - Trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, những đoàn xe vận tải luôn là mục tiêu đánh phá số 1 của máy bay địch...
Những nhiệm vụ “cảm tử”
Mỗi lần trở lại với tuyến đường 20 Quyết Thắng, hình ảnh những chiếc xe vận tải xuyên qua làn mưa bom, bão đạn của đế quốc Mỹ trên tuyến đường này năm xưa lại trở lại vẹn nguyên trong ký ức của cựu chiến binh Lê Hồng Huân. Năm 1963, chàng thanh niên Lê Hồng Huân tạm biệt Thủ đô lên đường nhập ngũ. Sau 3 tháng huấn luyện, ông nhận nhiệm vụ lái xe vận tải tại Đại đội 4, Tiểu đoàn vận tải 52 với nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa trên tuyến đường 20 Quyết Thắng. Tuyến đường có cụm trọng điểm liên hoàn gồm cua chữ A, ngầm Tà Lê và đèo Phu La Nhích (gọi tắt là A-T-P). Đây là “túi bom”, “tọa độ lửa” mà không quân Mỹ tạo ra để ngăn chặn sự chi viện từ Bắc vào Nam của ta. “Có thể thấy rõ, bom đạn làm cho những quả đồi bị bạt thấp hẳn đi, mặt đường bị cày đi xới lại, cây cối cháy rụi, rừng già biến thành đồi trọc… Cảnh tượng hoang tàn như vùng đất chết”, ông Huân kể lại.
Năm 1967, Đại đội 4 của ông Huân được lệnh vận chuyển một lô hàng qua A-T-P với khối lượng cần 4 chuyến xe mới chở hết. Ông Huân báo cáo cấp trên nhận trách nhiệm một mình vận chuyển lô hàng mà không cần điều động cùng lúc 4 chiếc xe, vì dễ làm lộ mục tiêu cho máy bay địch đánh phá và cũng để đồng đội có thời gian nghỉ ngơi. Trong một đêm, với 4 chuyến hàng, 8 lượt đi, về qua A-T-P, ông Huân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, bảo đảm an toàn phương tiện, hàng hóa và con người. Đây là một kỷ lục được lan truyền rộng rãi trên khắp những cung đường vận tải của bộ đội Trường Sơn. Sau chiến công này, ông được đồng đội đặt biệt danh là “Con sóc Hà Nội - Con sóc Trường Sơn”.
Cũng trong năm 1967, tiểu đội xe do ông Lê Hồng Huân làm tiểu đội trưởng được giao nhiệm vụ thí điểm chạy xe cả ban ngày lẫn ban đêm qua A-T-P do yêu cầu đẩy nhanh tiến độ đưa hàng hóa chi viện cho chiến trường và làm cho địch không đoán định được việc tổ chức vận tải của ta. Chiếc xe cũng được bố trí súng máy 14,5mm trên thùng để sẵn sàng đánh trả máy bay, bảo vệ hàng hóa. Đây có thể nói là một nhiệm vụ “cảm tử” vì vận chuyển ban ngày rất dễ bị lộ, trở thành mục tiêu đánh phá của địch. Và rồi người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã hoàn thành nhiệm vụ được giao. Với chiến công của mình, ông Huân được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba và được kết nạp Đảng. Cũng chính chiếc xe GAZ-63 do ông Huân điều khiển là chiếc xe đầu tiên của Đoàn 559 được thí điểm sử dụng đèn gầm “Con rùa” để chạy ban đêm.
Trên đường Trường Sơn huyền thoại vào những năm tháng khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, có lẽ không ai là không biết đến Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Đỗ Văn Tiến (Trung đội 3, Đại đội 2, Tiểu đoàn 101, Binh trạm 31). Hình ảnh sống động về chiếc xe vận tải Zil 157 của ông chính là cảm hứng để nhà thơ Phạm Tiến Duật sáng tác bài thơ “Tiểu đội xe không kính” nổi tiếng. Ngày cũng như đêm, dù có hôm bị sốt rét ác tính, ông vẫn cần mẫn chở từng chuyến hàng vượt qua mưa bom, bão đạn. Theo yêu cầu của đơn vị, mỗi chiến sĩ thực hiện 3 đêm/1 chuyến, nhưng bằng sự anh dũng và nỗ lực không mệt mỏi, ông đã liên tục trong 1.000 ngày đêm vận chuyển vượt chỉ tiêu 300%. Có tháng, ông vận chuyển 32 chuyến, đưa hàng đến địa điểm tập kết an toàn.
Mưu trí lừa máy bay địch
Được tôi luyện trong bom đạn, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Đỗ Văn Tiến nắm rõ những quy luật đánh phá của máy bay địch để tìm phương án đối phó. Ông kể, để không bị máy bay địch phát hiện, nếu trong điều kiện có ánh trăng thì xe không bật đèn gầm, chiến sĩ lái xe chỉ dựa vào đôi mắt. Đặc biệt, khi đi qua sông thì xe phải tắt hết đèn để tránh bị máy bay địch phát hiện do ánh sáng phản chiếu trên mặt nước. Khi xe vượt dốc cũng phải tắt hết đèn... Đặc biệt, một lần ông đã “chống lệnh” cấp trên để bảo đảm an toàn cho người, phương tiện, hàng hóa. Hôm đó, đơn vị chở hàng tiếp cận trọng điểm đánh phá của địch lúc gần 19h. Xe của ông dẫn đầu cả đoàn. Lúc này, Tiểu đoàn trưởng ra lệnh tiếp tục lên đường nhưng ông Tiến không đồng ý vì ông biết quy luật thường đến 19h máy bay địch sẽ ném bom đánh phá khu vực này. Quả đúng vậy, đến 19h, hàng đàn máy bay Mỹ ào đến trút bom lên trọng điểm. Hôm sau, đích thân Chính ủy Binh trạm 31 đã tặng ông Tiến bằng khen và một chiếc đồng hồ, phần thưởng xứng đáng cho người chiến sĩ lái xe có nhiều kinh nghiệm, bản lĩnh...
Năm 1970, tình nguyện nhập ngũ với lá đơn được ký bằng máu, cựu chiến binh Nguyễn Khắc Bổng được học lái xe 6 tháng rồi nhận công tác tại Tiểu đoàn 59, Trung đoàn 536, Sư đoàn vận tải 471. Quá trình lái xe vận tải trên đường Trường Sơn, ông đã tham gia chuyển hàng hóa, đạn dược cho hai chiến dịch lớn là Đường 9 - Nam Lào năm 1971 và bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Đối với ông Bổng và những chiến sĩ lái xe trong thời kỳ này, đối thủ cần cảnh giác nhất là loại máy bay C-130 của Mỹ. Loại máy bay này thường xuyên tuần tiễu trên không, khi phát hiện dấu hiệu xe vận tải thì lập tức sử dụng pháo, súng máy tự động có độ chính xác cao để tiêu diệt mục tiêu. Có những lần xe bị trúng đạn bốc cháy, ông Bổng còn lao vào cứu những thùng đạn, bất chấp hiểm nguy.
Không để xe, hàng hóa trở thành bia bắn di động cho máy bay địch, ông Bổng và đồng đội đã nghĩ ra nhiều phương pháp ngụy trang cho xe. “Để đối phó với những vũ khí công nghệ cao của địch, kinh nghiệm lái xe của tôi là cứ di chuyển khoảng 10-20km thì dừng xe, tắt máy cho động cơ nguội bớt nhằm hạn chế nguy cơ bị máy dò nhiệt trên máy bay địch phát hiện”, ông Bổng kể.
Không quản ngại vất vả, hy sinh, những chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn đã vận dụng sáng tạo kinh nghiệm trong chiến đấu, vượt qua bom đạn, vũ khí công nghệ cao của địch, đưa hàng hóa, đạn dược từ hậu phương chi viện cho chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước... "Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước/Chỉ cần trong xe có một trái tim” - nhà thơ Phạm Tiến Duật đã viết về họ như thế - để rồi, những trái tim ấy mãi nóng hổi đến ngày hôm nay…
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.