(HNM) - Mới đây, một nhà hoạt động điện ảnh đã đưa ra con số: chỉ có 0, 14 phim cho 1 triệu dân Việt Nam, trong khi Malaysia là 1 triệu dân/1 phim, Hàn Quốc 1 triệu dân/2 phim. Tỷ lệ đó cho thấy số lượng phim truyện do Việt Nam sản xuất quá ít. Một đất nước 86 triệu dân mà mỗi năm chỉ sản xuất được trên 10 phim truyện là có vấn đề.
Muốn giảm nhập siêu văn hóa, nên có chính sách hỗ trợ cho các đơn vị làm văn hóa có cơ hội phát triển. Ảnh: Khánh Nguyên |
Vì sao nhập siêu?
Từng có những năm Việt Nam sản xuất được 20 bộ phim truyện nhựa. Thậm chí, năm 1992 còn sản xuất được hơn 30 phim. Thực tế trong 10 năm qua, điện ảnh trong nước có những khởi sắc. Từ 5 hãng phim quốc doanh, nay cả nước có hơn 40 hãng phim do tư nhân và các tổ chức xã hội quản lý, nhiều cụm rạp hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế đã được xây dựng, số người đến rạp xem phim từ năm 2003 đến 2008 tăng gấp hơn 2 lần, xã hội hóa trong sản xuất phim cũng đạt 50% về số lượng.
Tại một cuộc hội thảo mới đây, ông Lê Ngọc Minh - Cục phó Cục Điện ảnh cho rằng, nguyên nhân sản xuất quá ít phim là do Việt Nam chưa có một thị trường điện ảnh đa dạng, chưa có hạ tầng cơ sở thỏa mãn nhu cầu làm phim và sáng tạo của các nghệ sỹ điện ảnh, kinh phí làm phim tăng trong khi kinh phí đầu tư của nhà nước cho phim truyện nhựa không thay đổi. Các hãng phim tư nhân thì sản xuất cầm chừng và hầu như chỉ tập trung làm phim tết. Theo lý giải của ông Minh thì đó là nguyên nhân dẫn đến nhập siêu phim truyện.
Trước tình hình số lượng phim sản xuất trong nước quá ít và nhu cầu khán giả tăng, các nhà nhập khẩu có vốn nước ngoài hay vốn trong nước đã không bỏ qua cơ hội này. Cơ sở pháp lý để họ nhập tràn lan là Luật Điện ảnh trước khi được sửa đổi khá cởi mở. Số lượng nhập tăng hằng năm, trong đó năm 2009 nhập về 106 phim, năm 2010 tăng tới 130 phim. Phim nhập về chủ yếu là phim Mỹ ở đủ thể loại: hành động, tâm lý, viễn tưởng...
Ở mảng sách, dù được bày đầy trên các sạp song tìm mỏi mắt may ra mới thấy tác phẩm văn học mới. Nguyên do là nhuận bút quá thấp, một cuốn tiểu thuyết vài trăm trang nhà xuất bản in 1.000 cuốn tác giả chỉ nhận được vài triệu đồng. Vì thế ngày càng ít người theo nghiệp văn chương, vừa vất vả, ít tiền, có khi không khéo lại còn mang vạ vào thân. Sách trong nước ít nên phải nhập nhiều là điều dễ hiểu. Trước khi Việt Nam ký Công ước Berne về bản quyền tác giả, số lượng tác phẩm văn học dịch lớn hơn rất nhiều vì các nhà xuất bản không bị bất cứ ràng buộc hay hạn chế nào. Sau khi tham gia công ước, các đơn vị xuất bản muốn in sách nước ngoài phải mua bản quyền. Không mua cố tình vi phạm, làm ẩu bán cả gia sản cũng không đủ tiền phạt. Hiện tại sách dịch chiếm khoảng 50% số sách xuất bản và 2/3 công việc của các đơn vị làm sách tư nhân và ít nhất trên 1/2 đầu sách xuất bản của các NXB lớn cũng đều là tác phẩm văn học dịch, phần còn lại là sách trong nước tái bản, các tác phẩm văn học kinh điển của thế giới đã hết thời hạn bảo hộ.
Dịch giả Nguyễn Lệ Chi, người từng làm việc nhiều với giới xuất bản Trung Quốc cho biết, không một NXB Trung Quốc nào có thông tin về văn học Việt Nam cũng như nhà văn Việt Nam. Đơn giản vì không NXB hoặc đơn vị xuất bản trong nước nào chào mời tác phẩm văn học Trung Quốc từ cổ điển đến hiện đại. Với các NXB phương Tây, số tác phẩm văn học Việt Nam dịch ra tiếng Anh hay ngôn ngữ khác cũng rất ít. Các tác phẩm giới thiệu trên trang web chỉ bằng tiếng Việt đã không tạo cơ hội cho các NXB nước ngoài tiếp cận để tìm hiểu. Thế nên văn học Việt Nam dịch ra tiếng nước ngoài và xuất bản, phát hành trên thị trường quốc tế rất thấp, chỉ đếm trên đầu ngón tay. Việc dịch các tác phẩm văn học Việt ra các ngôn ngữ khác trước đây phần lớn được thực hiện một cách đơn lẻ, do quen biết, do mối quan hệ cá nhân, do sự yêu thích của dịch giả đối với tác phẩm hoặc tác giả của tác phẩm đó. Một NXB lớn và hoạt động lâu năm như NXB Trẻ lần đầu phát hành bản dịch tiếng Anh ra nước ngoài mới chỉ từ đầu năm 2010 (cuốn "Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ", tác giả Nguyễn Ngọc Thuần). Xuất ít làm cho cán cân nghiêng về phía nhập.
Vài năm trở lại đây, trung bình mỗi năm có khoảng 400 album nhạc phát hành tại thị trường Việt Nam, có ca sỹ ra tới 5 album/năm. Việt Nam cũng là quốc gia mà rất nhiều ca sỹ được phong "sao", tuy nhiên họ chỉ là "sao" nhỏ bé đơn lẻ; vào dạng "sao" xóm, "sao" làng. Không kể các chương trình mang tính giao lưu và trao đổi văn hóa do Nhà nước tổ chức thì ca sỹ hay các nhóm nhạc Việt Nam xuất ngoại chỉ biểu diễn cho Việt kiều, rất hiếm chương trình biểu diễn cho khán giả nước ngoài. Thế nhưng, các nhóm nhạc nước ngoài vào Việt Nam khá nhiều. Tính riêng trong năm 2011, có nhiều chương trình thương mại với giá vé cao, ví dụ như: Backstreet Boys, Bob Dyland, nhóm nhạc 2AM (của Hàn Quốc), David Cook...
Ngoài các sản phẩm được phép còn vô vàn các sản phẩm văn hóa nhập lậu thông qua các con đường khác nhau, từ đĩa nhạc, phim đến trò chơi...
Cái "được" từ nhập siêu
Vẫn theo dịch giả Nguyễn Lệ Chi, việc các tác phẩm văn học dịch được giới thiệu thường xuyên và đầy đủ sẽ cung cấp cho nhà văn, nhà phê bình văn học, các độc giả trí thức... trong nước cái nhìn khái quát về từng dòng văn học cùng những đặc điểm rõ nét của chúng. Không có gì sát thực hơn việc tìm hiểu từng dòng văn học qua chính những tác phẩm thuộc dòng này. Ví dụ qua các tác phẩm dịch, độc giả hiểu một cách cặn kẽ và cụ thể về dòng văn học Ling Lei (Trung Quốc), Fantasy (Mỹ), Chicklit (Mỹ, Anh)... Phần lớn các tác phẩm văn học nước ngoài nổi tiếng đều được dịch và phát hành nhanh chóng sau khi bản gốc ra đời không lâu, thậm chí còn phát hành song song như các series: "Harry Potter" (J. K. Rowling), "Percy Jackson" (tác giả Rick Riordan), series truyện về ma cà rồng: Chạng vạng, Trăng non, Nhật thực, Hừng đông (tác giả Mỹ Stephenie Meyer)... đã tạo cơ hội cho độc giả trong nước được tiếp cận nhanh với tác phẩm. Ngoài ra cũng không thể phủ nhận, chính các tác phẩm văn học dịch nước ngoài giúp các tác giả Việt Nam, đặc biệt là tác giả trẻ, có được một nguồn tham khảo vô tận về cách kết cấu tác phẩm, phát triển đề tài, từ đó họ có thể tìm một con đường đi riêng.
Trong năm năm trở lại đây, tỷ lệ phim nhập tăng nhanh hằng năm, nhiều phim mới sau khi phát hành ở các thị trường quan trọng như: Bắc Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đã có mặt tại các rạp chiếu ở Việt Nam. Nhiều phim "bom tấn" còn được phát hành song song với các thị trường lớn. Cái lợi ở đây là khán giả không phải chờ đợi lâu, còn các đạo diễn, nhà biên kịch, quay phim... biết xu hướng điện ảnh hiện tại trên thế giới, cung cách làm phim, công nghệ...
Với âm nhạc, những chuyến lưu diễn của nghệ sỹ nước ngoài tại Việt Nam sẽ thỏa mãn cho những người hâm mộ họ. Bên cạnh đó giới tổ chức sự kiện âm nhạc cũng có thêm kinh nghiệm tổ chức, làm marketing...
Lợi bất cập hại
Chúng ta mở cửa và hội nhập nền văn hóa thế giới vào Việt Nam là điều dễ hiểu. Cái lợi từ văn hóa nhập khẩu là rõ nét nhưng cái hại thì không phải ai cũng nhận ra.
Việc nhập khẩu tràn lan phim truyện, phim truyền hình khiến sản phẩm nội khó có thể cạnh tranh là một thực tế. Điều này buộc giới điện ảnh trong nước phải cố gắng hơn, song trong lúc cố gắng thì rất nhiều đạo diễn, diễn viên, quay phim... không có cơ hội được làm việc và vì thế không thể tạo ra nền phim truyện Việt Nam hay các dòng phim truyền hình mang thương hiệu Việt Nam giống như phim tâm lý của Hàn Quốc, phim cổ trang dã sử Trung Quốc. Chiếu quá nhiều phim truyền hình hay ca nhạc Hàn Quốc đã thực sự tác động đến giới trẻ. Không ít thanh niên ăn mặc, đầu tóc giống như ca sỹ hay các minh tinh màn bạc xứ Hàn. Ngoài ra còn nhiều cái hại không thể đo đếm được…
Văn hóa là động lực cho sự phát triển và chúng ta vẫn luôn nói "xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", vậy việc nhập siêu văn hóa sẽ dẫn đến kết quả thế nào? Rất nhiều người cho rằng, muốn hạn chế nhập thì phải làm ra nhiều sản phẩm để người dân lựa chọn. Để làm được cần phải có chính sách hỗ trợ phù hợp để các đơn vị, cá nhân tác giả, dịch giả làm văn hóa có cơ hội phát triển. Còn nếu không thì văn hóa vẫn tiếp tục "bài ca" nhập siêu...
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.